Thứ Ba, 13 tháng 11, 2012


CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC

I. TRIẾT HỌC LÀ GÌ ?
1. Triết học và đối tượng của triết học
a)  Khái niệm và nguồn gốc của triết học
Theo người Trung Quốc, triết học là trí chỉ sự hiểu biết sâu sắc của con người. Ở phương Tây, triết học là philosophia, có nghĩa  là yêu mến sự thông thái. Dù sử dụng thuật ngữ nào ta cũng thấy triết học luôn tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đó là hoạt động tinh thần, trí tuệ muốn đi sâu vào tìm hiểu nội dung, bản chất của sự vật hiện tượng.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời từ hai nguồn gốc đó là nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc nhận thức: Con người đã đạt đến trình độ trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá.
- Nguồn gốc xã hội: xã hội có sự phân chia giai cấp.
b) Đối tượng của triết học
Thời cổ đại, triết học được gọi là triết học tự nhiên bao hàm tri thức về tất cả các lĩnh vực nên không có đối tượng riêng. Đây chính là nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng triết học là khoa học của mọi khoa học.
Thời kỳ trung cổ ở Tây Âu, khi quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thì triết học trở thành nô lệ của thần học. Nhiệm vụ của triết học là lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của những nội dung trong Kinh thánh.
Sau thời kỳ trung cổ, bước sang thời kỳ phục hưng và cận đại, một trào lưu tư tưởng chống lại thần học và nền triết học kinh viện diễn ra hết sức quyết liệt. Bắt đầu từ thế kỷ XV, sự phát triển của các ngành khoa học độc lập  đã chấm dứt tham vọng của triết học muốn đóng vai trò “khoa học của mọi khoa học”. Triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó.
Triết học Mác ra đời vào đầu thế kỷ XIX đã xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường chủ nghĩa duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề cơ bản của một khoa học là vấn đề có tính chất nền tảng, và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại trong ngành khoa học đó. Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay ý thức và vật chất.  Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:
- Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
II. CHỨC NĂNG THẾ GIỚI QUAN CỦA TRIẾT HỌC
1. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Xét theo quá trình phát triển có thể chia thế giới quan thành ba loại hình cơ bản: thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan vì triết học được coi như trình độ tự giác trong quá trình hình thành và phát triển của thế giới quan, đã diễn tả quan niệm của con người dưới dạng một hệ thống các phạm trù, quy luật chung nhất và trở thành nhân tố định hướng cho con người nhận thức thế giới. Đây là chức năng thế giới quan của triết học.
2. Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết
a) Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
- Chủ nghĩa duy vật: Trường phái triết học khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác (thời kỳ cổ đại): Các nhà duy vật ở thời kỳ này đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể, những kết luận của họ mang tính chất trực quan, ngây thơ, chất phác.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình (TK XVII – XVIII): Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình máy móc - nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ph. Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát triển. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời kỳ cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình khi phân biệt rõ vật chất giữa vật chất và vật thể đồng thời sử dụng phương pháp biện chứng trong nhận thức thế giới.
- Chủ nghĩa duy tâm: Trường phái triết học khẳng định ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm cũng chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức là cái có trước và tồn tại sẵn trong con người, trong chủ thể nhận thức còn các sự vật bên ngoài chỉ là phức hợp những cảm giác ấy mà thôi.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng theo họ đó là thứ tinh thần khách quan có trước và độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang những tên gọi khác như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới.
b) Thuyết không thể biết
Thuyết không thể biết là học thuyết triết học phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Theo đó, con người không thể hiểu được đối tượng hoặc có hiểu chăng chỉ là hiểu hình thức bề ngoài, vì tính xác thực các hình ảnh mà giác quan của con người đem lại trong quá trình nhận thức không đảm bảo tính chân thực. Con người vừa nhận thức được đối tượng thì nó lại biến đổi, cho nên nhận thức con người chỉ đuổi theo đối tượng mà thôi.
III. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG
1. Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng
- Phương pháp siêu hình là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về số lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
- Phương pháp biện chứng là phương pháp:
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của những mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã thể hiện dưới ba hình thức lịch sử là: Phép biện chứng tự phát thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
- Phép biện chứng tự phát thời cổ đại: Các nhà triết học đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên những gì mà các nhà biện chứng thấy được mang tính tự phát vì nó chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
- Phép biện chứng duy tâm: Đỉnh cao của phép biện chứng duy tâm thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen. Họ đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Song biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm.
- Phép biện chứng duy vật: Phép biện chứng duy vật được C. Mác và Ph. Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I. Lênin phát triển. Các ông đã gạt bỏ tính chất duy tâm thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
3. Chức năng phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét về phạm vi tác dụng, có thể phân chia phương pháp luận thành ba cấp độ: phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất: Phương pháp luận ngành là phương pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó. Phương pháp luận chung là phương pháp luận sử dụng cho một số ngành khoa học. Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.

CHƯƠNG II
KHÁI LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
TRƯỚC MÁC

A. TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
I. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
- Điều kiện tự nhiên của Ấn Độ có tính chất đối lập và khắc nghiệt. Sự đối lập và khắc nghiệt đó đã ảnh hưởng đến phong cách tư duy của người Ấn Độ, giúp họ xem xét giới tự nhiên ở cả hai mặt đối lập trái ngược nhau.
- Điều kiện về kinh tế – xã hội: Xã hội Ấn Độ cổ, trung đại tồn tại từ rất sớm và kéo dài, kết cấu kinh tế – xã hội theo mô hình công xã nông thôn và phân chia đẳng cấp rất nặng nề và khắc nghiệt.
- Điều kiện khoa học và văn hóa: Khoa học và văn hóa ở Ấn Độ cổ, trung đại phát triển rất sớm và đạt được những thành tựu đáng kể. Nền văn hóa Ấn Độ cổ, trung đại thường được chia làm ba giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 (TK XXV – XV TCN): nền văn minh sông Ấn.
+ Giai đoạn 2 (TK XV – VII TCN): nền văn minh Veda.
+ Giai đoạn 3 (TK VI TCN – TK I TCN): thời kỳ hình thành các trường phái triết học tôn giáo lớn. Các trường phái triết học tôn giáo Ấn Độ cổ, trung đại gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống (tà giáo).
Các trường phái triết học chính thống là những trường phái triết học thừa nhận uy thế tối cao của kinh Veda và đạo Bàlamôn bao gồm sáu trường phái: Samkhuya, Mimanxa, Vedanta, Yoga, Nyaya, Vaisêsika.
Các trường phái triết học không chính thống là những trường phái triết học phủ nhận, bác bỏ uy thế của kinh Veda và đạo Bàlamôn bao gồm ba trường phái: Jaina, Lokayata và Buddha (Phật giáo).
- Triết học Ấn Độ cổ, trung đại có những đặc điểm sau:
+ Triết học Ấn Độ chịu ảnh hưởng lớn của những tư tưởng tôn giáo, các học thuyết triết học – tôn giáo có xu hướng “hướng nội”, mong muốn đạt tới sự “giải thoát” cho con người.
+ Triết học Ấn Độ cổ trung đại thường tôn trọng quá khứ, kế thừa mà không gạt bỏ hệ thống triết học trước đó.
+ Triết học Ấn Độ cổ trung đại thể hiện một trình độ tư duy trừu tượng cao trong khi bàn về vấn đề bản thể luận.
2. Tư tưởng triết học Phật giáo (Buddha)
Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ VI TCN, ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, thuộc vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nêpan bây giờ. Người sáng lập ra trào lưu tư tưởng này là Siddharda (Tất Đạt Đa), thái tử con vua Tịnh Phạn, ông được người đời tôn vinh là Thích Ca Mâu Ni, Buddha (Phật – có nghĩa là Đấng giác ngộ và giác ngộ người khác).
Toàn bộ tư tưởng triết lý Phật giáo được thể hiện trong sách “Tam tạng kinh” gồm ba bộ là: Tạng kinh, Tạng luận và Tạng luật.
- Về thế giới quan: Thế giới quan trong triết học Phật giáo chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng, thể hiện trong các quan điểm vô tạo giả, vô thường, vô ngã, nhân duyên.
+ Vô tạo giả: Phật giáo phủ nhận Đấng sáng tạo (Brahman).
+ Vô thường có nghĩa là vạn vật trong thế giới biến hóa vô thường, vô định theo chu trình bất tận: sinh – dị – trụ - diệt, “sắc sắc, không không”.
+ Vô ngã – Anatman nghĩa là không có cái “tôi”. Vạn vật trong vũ trụ chỉ là giả hợp do hội tụ đủ nhân duyên nên thành ra có.
+ Nhân duyên: Phật giáo cho rằng vạn vật trong vũ trụ đều bị chi phối bởi luật nhân duyên. Duyên là điều kiện, là cái khiến cho nhân sinh ra quả, quả ấy lại do cái duyên mà thành nhân khác. Nhân khác này nhờ duyên mà thành quả mới… nhân nào thì quả ấy. Cứ như vậy nối tiếp nhau làm cho vạn vật tiếp tục sinh sinh, hóa hóa đến vô cùng.
- Về nhân sinh quan: Mục đích cuối cùng và cũng là tư tưởng chủ đạo có tính xuyên suốt toàn bộ học thuyết nhân sinh Phật giáo là tư tưởng giải thoát khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái Niết bàn. Để đạt tới sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn chân lý tuyệt diệu, thiêng liêng: Tứ diệu đế
+ Khổ đế Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ. Phật giáo quan niệm “Đời là bể khổ”. Có ít nhất tám nỗi khổ mà con người phải gánh chịu trong cuộc đời, đó là: sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, ngũ thụ uẩn.
+ Tập đế – Phật giáo đề cập đến nguyên nhân tạo ra những nỗi khổ cho đời người. Phật giáo đưa ra thuyết “Thập nhị nhân duyên” – Đó là 12 nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của con người trong đó vô minh là nguyên nhân đầu tiên.
+ Diệt đế - Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ có thể tiêu diệt được để đạt đến trạng thái Niết bàn.
          + Đạo đế – Phật giáo trình bày con đường mà chúng sinh phải tuân theo để diệt khổ và giải thoát. Phật giáo đưa ra 8 nguyên tắc để diệt khổ gọi là bát chính đạo, bao gồm:
Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn tứ đế.                                 TUỆ
Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn.                                      (trí tuệ)
Chính ngữ: Nói lời đúng đắn
Chính nghiệp: Giữ nghiệp đúng đắn.                                    GIỚI
Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng.                                     (giới luật)  
Chính tịnh tiến: Rèn luyện, tu lập không mệt mỏi.
Chính niệm: Tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.            ĐỊNH
Chính định: Tập trung tu tưởng cao độ.                            (thiền định)
Giới, Định, Tuệ (Tam Học) là những con đường diệt khổ, giải thoát chúng sinh khỏi cảnh trầm luân sinh tử để đạt đến siêu phàm, thanh tịnh.
II. TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ, TRUNG ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
- Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, điều kiện tự nhiên mang những yếu tố đối lập, do vậy đã ảnh hưởng đến tư duy của họ. Trung Hoa cổ đại có thời kỳ lịch sử lâu dài, từ cuối thiên niên kỷ III TCN kéo dài đến tận thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy quyền, bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 200 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được chia làm hai thời kỳ lớn.
+ Thời kỳ thứ nhất (Từ cuối thiên niên kỷ III TCN - TK IX TCN) - Thời kỳ Tây Chu -  Đã hình thành các nhà nước chiếm hữu nô lệ, những tư tưởng triết học đã xuất hiện nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí là thế giới quan thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Trung Hoa bấy giờ.
+ Thời kỳ thứ hai (TK VIII - cuối TK III TCN) -Thời kỳ Đông Chu thường gọi là thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc. Xã hội Trung Hoa  thời kỳ này diễn ra những biến động lịch sử lớn lao, các trường phái triết học lớn cũng nảy sinh hàng loạt, khiến người ta phải gọi là thời kỳ “Bách gia chư tử”.
- Ra đời trên cơ sở kinh tế - xã hội Đông Chu, triết học Trung Hoa cổ, trung đại có những đặc điểm nổi bật sau:
+ Thứ nhất, nhấn mạnh tinh thần nhân văn. Các tư tưởng liên quan đến con người như triết học đạo đức, triết học nhân sinh, triết học chính trị, triết học lịch sử phát triển, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
+ Thứ hai, chú trọng chính trị đạo đức. Các triết gia Trung Hoa xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ  nhất của sinh hoạt xã hội.
+ Thứ ba, nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa tự nhiên và xã hội. Đa số các triết gia thời Tiên Tần khi nghiên cứu các vận động của tự nhiên, xã hội và nhân sinh đều nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa các mặt đối lập, coi trọng tính đồng nhất của các mối liên hệ tương hỗ của các khái niệm, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề.
+ Thứ tư là tư duy trực giác. Tư duy trực giác thể hiện sự cảm nhận hay thể nghiệm, phương thức tư duy trực giác đặc biệt coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ của nhận thức, chỉ dựa vào trực giác mà cảm nhận nên thiếu sự chứng minh rành rọt.
2. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
a) Thuyết Âm – Dương, Ngũ hành
- Tư tưởng triết học về Âm- Dương
Thuyết Âm - Dương cho rằng thái cực là nguyên thể đầu tiên của thế giới, tồn tại cùng khắp vũ trụ. Thái cực bao hàm hai mặt đối lập Âm và Dương.
+ Dương nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời và những gì thuộc về ánh sáng mặt trờiÂm bóng tối và tất cả những gì thuộc về bóng tối. Trong sự phát triển về sau, Âm và Dương được coi là hai thế lực căn bản của vũ trụ, biểu thị cho sáng và tối, nóng và lạnh, động và tĩnh, cương và nhu, đực và cái
+ Âm – Dương thống nhất trong Thái cực đồng thời tác động qua lại lẫn nhau, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm.  Sự tác động qua lại giao hòa giữa Âm và Dương đã tạo ra vạn vật trong vũ trụ. Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái đa dạng, phong phú của vạn vật học thuyết Âm – Dương đưa ra logíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái, Bát quái sinh ra vạn vật.
- Tư tưởng triết học về Ngũ hành
+ Ngũ hành là năm yếu tố vật chất đầu tiên hay năm thế lực cơ bản của vũ trụ vạn vật, bao gồm: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
+ Các yếu tố của Ngũ hành không tồn tại một cách tĩnh tại, biệt lập, thụ động mà chúng là những yếu tố hoạt động, liên hệ tương tác với nhau.  Các Âm dương gia đã chia sự tác động lẫn nhau của Ngũ hành thành hai quá trình: tương sinh và tương thắng.
Ngũ hành tương sinh là quá trình các yếu tố trong Ngũ hành tác động, chuyển hóa, sinh thành lẫn nhau: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy. Từ đây lại bắt đầu của quá trình tương sinh mới giữa các yếu tố của ngũ hành.
Ngũ hành tương thắng là quá trình các yếu tố của Ngũ hành đối lập với các yếu tố kia, tạo ra sự ràng buộc và chế ước lẫn nhau giữa chúng: Mộc thắng Thổ, Thổ thắng Thủy, Thủy thắng Hỏa, Kim thắng Mộc.
b) Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI TCN dưới thời Xuân Thu. Người sáng lập Nho gia là Khổng Tử (551 – 479 TCN). Sau khi Khổng Tử mất, Nho gia chia thành tám phái nhưng quan trọng nhất là phái Mạnh Tử và Tuân Tử.
Mạnh Tử phát triển Nho gia theo khuynh hướng duy tâm. Ông đi sâu tìm hiểu bản tính con người, đưa ra thuyết tính thiện và cho rằng thiên mệnh quyết định nhân sự. Tuân Tử phát triển Nho gia theo khuynh hướng duy vật. Ông đưa ra thuyết "tính ác" và cho rằng sức người có thể thắng được trời. Tư tưởng triết học của Nho gia bao gồm những nội dung chính như sau:
- Về giới tự nhiên: Những người sáng lập Nho gia nói về tự nhiên không nhiều. Họ cho rằng trời có ý nghĩa bậc nhất, đề cao "thiên mệnh", nhưng lại xa lánh quỷ thần. Điều đó thể hiện tính chất mâu thuẫn trong tư tưởng của họ, chưa gạt được quan niệm thần bí có từ thời Ân Chu.
- Về đạo đức: Hệ thống các quan niệm về đạo đức của Nho gia rất phức tạp và rộng lớn, nhưng tựu trung lại có thể xem xét hai phạm trù cơ bản là nhân nghĩa, và luân thường.
+ Nhân nghĩa: Theo cách hiểu thông thường thì nhân là lòng thương người, nghĩa là dạ thuỷ chung, mọi đức khác của con người đều do nhân nghĩa mà ra. Trong mối liên hệ với "nghĩa" thì "nhân" là bản chất của "nghĩa", bản chất ấy là thương người “Việc gì mình mình không muốn thì không làm cho người khác”. "Nghĩa" là hình thức của "Nhân", là cái nên làm.
+ Luân thường: Nội dung cơ bản đạo đức của Nho gia là luân thường bao gồm ngũ luân và ngũ thường. Ngũ luân bao gồm năm mối quan hệ xã hội cơ bản là vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn. Trong đó có ba điều chính là vua tôi, cha con, chồng vợ gọi là tam cương. Ngũ thường bao gồm năm đức tính do trời phú cho con người là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
- Về chính trị: Để làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử chủ trương thực hiện chính danh, lễ trị.
+ Thuyết chính danh: Theo Khổng Tử, mỗi vật và mỗi người trong xã hội đều có một công dụng, địa vị, bổn phận nhất định và tương ứng với nó là một danh nhất định. Mỗi một “danh” đều có tiêu chuẩn, riêng. Chính danh có nghĩa là vật nào, người nào mang “danh” nào phải thực hiện bằng được những tiêu chuẩn, trách nhiệm của danh đó. Đó là: “vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha phải ra ra cha, con phải ra con”.
+ Thuyết lễ trị: Lễ hiểu theo nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti của cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hàng ngày. Lễ trở thành cơ sở của xã hội có tổ chức bảo đảm cho phân định trên dưới rõ ràng, ngăn ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá.
Lễ còn được hiểu là một đức trong "ngũ thường". Với nghĩa này, "Lễ" là nội dung cơ bản của lễ giáo đạo Nho. Tuân theo Lễ là tuân theo những giáo huấn kỷ cương, nghi thức do Nho gia đề ra. Như vậy, Lễ đã trở thành công cụ chính trị, phương pháp chăn dân, trị nước của Nho giáo.
c) Đạo gia
Đạo gia là một trào lưu triết học lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Người sáng lập là Lão Tử và người phát triển thành một hệ thống sâu sắc là Trang Tử nên Đạo gia còn được gọi là đạo Lão Trang. Tư tưởng triết học của Đạo gia được thể hiện trên những mặt cơ bản sau đây:
- Quan điểm về Đạo:
+ Đạo là bản nguyên của vũ trụ, là nguồn gốc của vạn vật. Vạn vật nhờ đạo mà sản sinh ra theo trình tự: “đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật”.
+ Đạo là quy luật về sự sinh thành, biến hóa tự thân của vạn vật, quy luật ấy gọi là “đức”. Đức chính là nguyên lý của mỗi vật. Lão Tử chỉ rõ rằng: “đạo sinh ra và đức nuôi nấng bảo tồn lấy”.
- Quan điểm về đời sống xã hội:
Mở rộng quan điểm về “đạo” vào trong đời sống xã hội, Đạo gia đề xướng học thuyết vô vi. Vô vi là khuynh hướng trở về với nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức là hợp thể với đạo. Giải pháp trị nước theo Đạo gia là “lấy vô vi mà xử sự, lấy bất ngôn mà dạy đời”.
B. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TÂY ÂU TRƯỚC MÁC
I. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
- Triết học Hy Lạp ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển cao với những mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt. Đó là mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, giữa chủ nô quý tộc và chủ nô dân chủ.
Hy Lạp có vị trí địa lý thuận lợi về lưu thông trên biển nên đã thúc đẩy thương nghiệp phát triển, cùng với nó là sự tăng cường giao lưu văn hoá Đông Tây.
- Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
+ Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó hữu cơ với khoa học tự nhiên. Hầu hết các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đều là những nhà khoa học tự nhiên.
+ Thời kỳ Hy Lạp cổ đại đã có sự ra đời rất sớm của chủ nghĩa duy vật mộc mạc, thô sơ và phép biện chứng tự phát.
+ Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại phản ánh cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, xét cho cùng đó là sự đấu tranh của hai tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc.
+ Về mặt nhận thức, triết học Hy Lạp cổ đại theo khuynh hướng chủ nghĩa duy giác.
2. Một số triết gia tiêu biểu
* Hêraclit (520 - 460 TCN)
Hêraclit là nhà triết học nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại. Ông được coi là người yếm thế, đơn độc, huyền bí, nhưng người đời sau lại nhắc đến như một nhà duy vật chất phác có nhiều tư tưởng biện chứng rất sâu sắc.
- Là nhà duy vật, Hêraclit cho rằng lửa là bản nguyên của mọi vật, là yếu tố căn bản, duy nhất, phổ biến của thế giới “vũ trụ không do ai sáng tạo ra mà là ngọn lửa sống động vĩnh cửu, bùng cháy và tắt đi theo quy luật của mình”.
- Là nhà biện chứng, Hêraclit chủ trương “mọi sự vật đều biến đổi”. Dưới con mắt của ông mọi sự vật trong thế giới đều vận động, thay đổi và phát triển không ngừng. Ông thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập nhưng trong các quan hệ khác nhau.
* Đêmôcrit (460 - 370 TCN)
Đêmôcrit là nhà triết học duy vật vĩ đại trong thế giới cổ đại. Ông đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử của Lơxip trở thành đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại.
- Đêmôcrit cho rằng cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi sự vật là nguyên tử. Nguyên tử hạt vật chất không thể phân chia được nữa, hoàn toàn nhỏ bé và không thể cảm nhận được bằng trực quan. (Nguyên tử – Atom có nghĩa là không thể phân chia được).
- Nguyên tử có muôn vàn hình dạng. Các nguyên tử liên kết với nhau theo cách thức khác nhau làm nên tính đa dạng và vận động không ngừng của thế giới.
- Đêmôcrit cho rằng linh hồn là một dạng vật chất được cấu tạo tử các nguyên tử. Nguyên tử cấu tạo nên linh hồn hình cầu, linh động như ngọn lửa, vận động với tốc độ lớn. Nguyên tử linh hồn sinh ra nhiệt làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Linh hồn không bất tử, nó chết đi cùng thể xác.
* Platôn (427 - 347 TCN)
Platôn là nhà triết học duy tâm khách quan nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm là học thuyết về ý niệm.
- Học thuyết ý niệm: Theo Platôn, ý niệm là nguồn gốc của thế giới, sinh ra mọi vật. Ý niệm tồn tại vĩnh viễn, bất biến bên ngoài con người, ngoài cảm giác của con người.
Platôn thừa nhận sự tồn tại của hai thế giới: Thế giới các sự vật cảm biết và thế giới ý niệm. Thế giới các sự vật cảm biết là thế giới tồn tại không chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, luôn thay đổi, vận động, trong chúng không có cái gì ổn định, bền vững, hoàn thiện. Thế giới ý niệm là thế giới của những cái phi cảm tính, phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm.
- Lý luận nhận thức: Theo Platon, nhận thức của con người là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn về  những điều đã lãng quên trong quá khứ.
- Quan niệm về xã hội: Platon phê phán ba hình thức nhà nước: nhà nước của bọn vua chúa, nhà nước quân phiệt, nhà nước dân chủ và chủ trương xây dựng nhà nước lý tưởng. Trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lý tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết mâu thuẫn giữa các nhu cầu xã hội.
* Arixtot (384 - 322 TCN)
Arixtot được xem như là bộ óc bách khoa nhất trong số các nhà tư tưởng cổ đại Hy Lạp. Là học trò và học tại Viện Hàn lâm của Platon nhưng Arixtot lại có nhiều quan điểm bất đồng với Platon. Sau khi Platon qua đời, ông đã rời Viện Hàn lâm và thiết lập ra trường phái triết học riêng của mình.
- Arixtot phê phán hệ thống triết học duy tâm khách quan của Platon đặc biệt là học thuyết ý niệm, ông cho rằng học thuyết ý niệm của Platon không có lợi cho nhận thức của con người, dựa vào nó, con người không thể nhận biết được thế giới bên ngoài và không thể giải thích được sự vận động của thế giới.
- Quan điểm về giới tự nhiên: Arixtot khẳng định, tự nhiên là toàn bộ những sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận động và biến đổi. Vật chất và vận động có quan hệ chặt chẽ không tách rời nhau. Ông đã phân biệt sáu hình thức vận động: phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng lên, giảm đi, di chuyển vị trí…
Quan niệm về tự nhiên của Arixtot còn dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Theo Arixtot giới tự nhiên vừa là vật chất đầu tiên vừa là hình dáng (cái đưa từ bên ngoài vật chất). Nhận thức là thu nhận hình dáng chứ không phải chính sự vật. Sở dĩ ông đưa ra tư tưởng sai lầm đó vì coi sự phát triển của giới tự nhiên cũng như hoạt động sản xuất của con người.
- Lý luận nhận thức: Lý luận nhận thức của Arixtot được xây dựng trên cơ sở phê phán học thuyết Platon về “ý niệm” và sự “hồi tưởng”. Arixtot thừa nhận thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức. Thế giới khách quan chính là nguồn gốc của kinh nghiệm và cảm giác. Ông cho rằng cảm giác có vai trò quan trọng trong nhận thức, nhờ có cảm giác về đối tượng mà có tri thức trong nhận thức, có tri thức đúng, có kinh nghiệm và lý trí hiểu biết được về đối tượng.
Nhìn chung nhận thức luận của Arixtot chứa các yếu tố cảm giác luận và kinh nghiệm luận có khuynh hướng duy vật, tuy nhiên ông mắc phải sai lầm mang tính chất duy tâm đó là đã thần thánh hoá nhận thức lý tính, coi nó là chức năng của linh hồn, của thượng đế.
II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU TRUNG CỔ
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm triết học Tây Âu trung cổ
- Lịch sử phát triển của xã hội Tây Âu trung cổ từ khoảng thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ XV. Nó đánh dấu sự sự tan rã của chế độ nô lệ và sự ra đời của chế độ phong kiến. Chế độ phong kiến đã tạo ra một năng suất lao động cao hơn nhiều so với chế độ chiếm hữu nô lệ, bộ mặt xã hội thay đổi và phát triển trên nhiều lĩnh vực.
- Thời kỳ trung cổ ở Tây Âu là thời kỳ mà nhà thờ là một tổ chức tập quyền hùng mạnh, tôn giáo bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những điều kiện đó đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển của triết học Tây Âu trung cổ.
- Đặc điểm triết học thời kỳ này là khuynh hướng phát triển của chủ nghĩa kinh viện. Chủ nghĩa kinh viện Thiên chúa giáo thể hiện tập trung ở học thuyết của Tômát Đacanh.
2. Phái duy danh và phái duy thực
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học Tây Âu trung cổ thể hiện qua cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh xung quanh việc giải quyết vấn đề trung tâm của triết học.
- Chủ nghĩa duy danh cho rằng cái chung, cái phổ biến, các khái niệm chung không tồn tại thực, không độc lập với con người. Nó chỉ là những tên gọi giản đơn mà con người sáng tạo ra, không có con người và cái nhà nói chung mà chỉ có con người và cái nhà cụ thể là tồn tại thực.
- Chủ nghĩa duy thực cho rằng cái chung, cái phổ biến, các khái niệm chung là tồn tại thực, là cái có trước. Nó là một thực thể tinh thần không phụ thuộc vào sự vật cụ thể. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy thực là triết học Platon và thuyết hình thức của Arixtốt.
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái duy thực và duy danh là sự thể hiện hai khuynh hướng đối lập duy vật và duy tâm. Các nhà triết học duy danh gần gũi với chủ nghĩa duy vật, còn các nhà triết học duy thực là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm.
III. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI
1. Triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng (Thế kỷ XV - XVI ở Tây Âu)
- Thế kỷ XV - XVI ở Tây Âu được gọi là thời kỳ Phục Hưng. Đây là thời kỳ khôi phục lại nền văn hoá cổ đại cũng là bước quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản. Trong thời kỳ Phục hưng, khoa học đã dần dần phát triển độc lập đoạn tuyệt với thần học và tôn giáo thời trung cổ, đồng thời khoa học cũng trở thành vũ khí mạnh mẽ chống lại thế giới quan duy tâm tôn giáo. Sự phát triển của khoa học tự nhiên đã đòi hỏi có sự khái quát triết học, rút ra những kết luận có tính chất duy vật từ các tri thức cụ thể.
- Một số nhà triết học tiêu biểu thời kỳ Phục hưng có thể kể đến như sau: Côpécních, Brunô, Galilê…
+ Côpécních là nhà thiên văn học và triết học người Ba Lan. Ông là người đầu tiên đưa ra thuyết Nhật tâm, một trong những bước đột phá của khoa học. Côpécních chứng minh rằng: mặt trời ở trung tâm vũ trụ, các hành tinh khác (kể cả trái đất) đều quay quanh mặt trời.
+ Brunô là một nhà triết học đồng thời là một nhà khoa học tự nhiên vĩ đại thời Phục hưng ở Italia. Ông là người kế tục và phát triển thuyết Nhật tâm của Côpécních.
Brunô bổ sung thuyết Nhật tâm của Côpécních cho rằng có vô số thế giới, xung quanh trái đất có một bầu không khí cùng xoay với trái đất và mặt trời cũng đổi chỗ với các vì sao. Ông cũng chứng minh tính thống nhất vật chất của thế giới.
Học thuyết của Brunô đã bác bỏ quan niệm cơ bản của tôn giáo về sự tồn tại của thế giới bên kia, thế giới thần linh, không có chúa trời nào thống trị vũ trụ cả.
2. Triết học Tây Âu cận đại (thế kỷ XVII - XVIII)
a) Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Tây Âu cận đại
- Từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ mâu thuẫn gay gắt với phương thức sản xuất phong kiến, dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản thay thế phương thức sản xuất phong kiến bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Do nhu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản, thời kỳ này khoa học tự nhiên phát triển nhảy vọt. Những thay đổi trong đời sống xã hội và thành tựu trong khoa học tự nhiên đã khiến triết học cũng có một bước phát triển mới.
- Triết học Tây Âu cận đại có đặc điểm cơ bản như sau:
+ Chủ nghĩa duy vật phát triển mạnh mẽ lấn át chủ nghĩa duy tâm tôn giáo và trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội.
+ Trong thời kỳ này, phương pháp tư duy siêu hình, máy móc giữ vai trò chi phối do chịu ảnh hưởng của cơ học Niutơn.
b) Một số triết gia tiêu biểu
* Phranxi Bêcơn (1561 - 1626)
Phranxi Bêcơn là nhà triết học và khoa học tự nhiên thực nghiệm kiệt xuất. Theo Mác, Phranxi Bêcơn là "ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh".
Phranxi Bêcơn đề cao vai trò của tri thức, đặt cho triết học của mình nhiệm vụ tìm kiếm con đường nhận thức giới tự nhiên. Ông phê phán phương pháp triết học của các nhà tư tưởng trung cổ và các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa. Và cho rằng phương pháp nhận thức tốt nhất là phương pháp quy nạp (phương pháp con ong) - đi từ cái riêng đến cái chung, từ những sự kiện riêng lẻ đến những nguyên lý phổ biến.
* Tômát Hốpxơ (1588 - 1679)
Tômát Hốpxơ là nhà triết học duy vật Anh nổi tiếng, người kế tục và hệ thống hoá triết học của Bêcơn. Ông là người sáng tạo ra hệ thống đầu tiên của chủ nghĩa duy vật siêu hình trong lịch sử triết học.
- Tômát Hốpxơ cho rằng thế giới vật chất, thế giới tự nhiên tồn tại khách quan nhưng đó thế giới của những sự vật riêng lẻ, mọi sự vật đều được quy về quan hệ số lượng, cơ học. Ngay cả trái tim con người ông cũng quan niệm đó là chiếc lò xo, dây thần kinh là những sợi chỉ, còn khớp xương là các bánh xe.
- Theo Tômát Hốpxơ, vật chất luôn vận động song ông quy vận động của vật chất về vận động cơ học, đó chỉ là sự di chuyển giản đơn, máy móc của các vật thể trong không gian.
* Rơnê Đêcáctơ (1596 - 1654)
Rơnê Đêcáctơ xuất thân từ một gia đình quý tộc Pháp. Ông là nhà khoa học nổi tiếng đồng thời là người sáng lập ra triết học cận đại. Cùng với Ph. Bêcơn, ông đã tạo ra một bước cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học Tây Âu cận đại.
Rơnê Đêcáctơ chống lại triết học kinh viện, và nêu lên nguyên tắc nghi ngờ. Theo ông, nghi ngờ là điểm xuất phát của khoa học và đưa ra một kết luận nổi tiếng: "Tôi tư duy vậy tôi tồn tại".  Nghi ngờ của  Rơnê Đêcáctơ không phải là chủ nghĩa hoài nghi, mà là để tìm ra phương pháp, hướng đi đúng đắn cho khoa học nhằm đảm bảo đạt tới chân lý.
Như vậy, nguyên tắc nghi ngờ của  Rơnê Đêcáctơ có một nội dung tích cực đó là phủ nhận tất cả những gì là kinh viện, giả khoa học, giáo điều, mê tín. Tuy nhiên, luận điểm "Tôi tư duy vậy tôi tồn tại" cũng bộc lộ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Đềcáctơ vì ông đã lấy tư tưởng, suy nghĩ của chủ thể làm khởi điểm của sự tồn tại.
* Xpinôda (1632 - 1677)
Xpinôda là nhà duy vật xuất sắc người Hà Lan. Ông chịu ảnh hưởng nhiều bởi R. Đềcáctơ nhưng phản đối nhị nguyên luận của R. Đềcáctơ.
Xpinôda cho rằng mọi thực thể đều có thuộc tính, đó là đặc trưng chất lượng của thực thể làm cho các thực thể phân biệt với nhau. Thuộc tính của thực thể là vô hạn về số lượng, song con người mới phát hiện được hai trong vô vàn thuộc tính đó là quảng tính (độ dài, khoảng cách) và tư duy. Quảng tính và tư duy là hai thuộc tính của một thực thể, chúng hoàn toàn độc lập với nhau. Tư tưởng đó của Xpinôda đã chống lại quan điểm nhị nguyên luận của R. Đềcáctơ.
* Giôn Lốccơ (1632 - 1704)

Giôn Lốccơ là đại biểu của phái duy cảm, chủ nghĩa duy vật của ông không triệt để. Ông phê phán các học thuyết về tư tưởng bẩm sinh và đưa ra nguyên lý tấm bảng sạch (tabula rasa). Nguyên lý tấm bảng sạch đã khẳng định: mọi tri thức con người không phải là bẩm sinh, mà là kết quả của nhận thức con người; mọi quá trình nhận thức đều phải xuất phát từ các cơ quan cảm tính. Theo tinh thần duy vật của nguyên lý tấm bảng sạch, Giôn Lốccơ coi kinh nghiệm là nguồn gốc duy nhất của mọi tri thức.

* Gioocgiơ Béccli (1684 - 1753)
Béccli là một linh mục xuất thân từ gia đình quý tộc. Ông là đại biểu của chủ nghĩa duy tâm chủ quan ở Anh cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII.
Nhằm mục đích bảo vệ tôn giáo, tuyên truyền cho chủ nghĩa duy tâm thần bí, Gioocgiơ Béccli đã tấn công vào chủ nghĩa duy vật.
Theo Béccli khái niệm vật chất không tồn tại khách quan mà chỉ là cái tên gọi thuần tuý. Ông đã đưa ra mệnh đề: "vật thể thế giới quanh ta là phức hợp của những cảm giác" và tuyên bố: tồn tại nghĩa là được cảm biết. Với quan niệm này, Béccli đã phủ nhận sự tồn tại khách quan, tồn tại thực sự của sự vật kể cả con người chỉ loại trừ chủ thể đang nhận thức (tức là con người đang cảm giác).
* Đavít Hium (1711 - 1766)
Đavít Hium là nhà triết học nổi tiếng người Anh, tiếp tục đường lối của Béccơli. Nhưng khác với Béccơli, Hium đi đến chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết.
Đavít Hium không thừa nhận bất cứ một thực thể nào. Trung tâm trong lý luận nhận thức Hium là học thuyết về tính nhân quả, ông đã giải quyết mối quan hệ đó theo lập trường bất khả tri. Theo ông, nhân quả không phải là một quy luật của tự nhiên mà chỉ là thói quen tâm lý. Đavít Hium cho rằng, sự tồn tại của các mối liên hệ nhân quả là không thể chứng minh được. Sở dĩ như vậy vì về mặt logíc không thể rút ra kết quả từ nguyên nhân, cái mà người ta cho là kết quả thì lại không thể chứa đựng trong cái nguyên nhân, kết quả không giống nguyên nhân.
3. Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII
Xã hội Pháp thế kỷ XVIII chứa đựng những mâu thuẫn sâu sắc giữa tầng lớp phong kiến giàu có nắm giữ quyền lực với những người lao động nghèo khổ.
Trong hoàn cảnh đó, chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII hay còn gọi là triết học thời kỳ Khai sáng chính là vũ khí lý luận chuẩn bị cho cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, xác lập xã hội tư bản. Thời kỳ này xuất hiện nhiều đại biểu xuất sắc như LaMettri, Môngtexkiơ, Vônte, Rutxô, Điđrô, Hônbách… Các nhà duy vật Pháp thừa nhận:
+ Vật chất, giới tự nhiên là cái có trước, ý thức là cái có sau. vật chất tồn tại vĩnh viễn, không ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được.
+ Sự phong phú đa dạng của sự vật chỉ là những hình thức tồn tại khác nhau của tồn tại vật chất do các phân tử cấu thành.
+ Vận động, không gian, thời gian là những thuộc tính cơ bản của vật chất.
4. Triết học cổ điển Đức
a) Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức
- Khái niệm “triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ sự phát triển triết học của Đức ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Cũng như triết học của mọi thời kỳ, triết học cổ điển Đức được xây dựng trên những nền tảng kinh tế – xã hội nhất định.
+ Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu và phân chia thành nhiều tiểu vương quốc nhỏ tách biệt nhau trong khi đó cuộc cách mạng công nghiệp tại Anh và cách mạng tư sản tại Pháp đã nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa Châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp.
+ Thực tại đau buồn tại Đức và tấm gương các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Tuy nhiên, khác với giai cấp tư sản Pháp vốn triệt để cách mạng, giai cấp tư sản Đức ngay từ đầu đã muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc Phổ đang thống trị, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát triển của đất nước.
- Những điều kiện kinh tế – xã hội nêu trên đã quy định những đặc trưng của triết học cổ điển Đức, đó là: Khôi phục lại phép biện chứng; chuyển từ chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của Cantơ đến chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen; phê phán phép siêu hình truyền thống lý tính; chú ý đến những vấn đề triết học lịch sử.
b) Một số triết gia tiêu biểu
* Cantơ (1724 - 1804)
Cantơ là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây. Tư tưởng của ông là một trong những tiền đề lý luận của triết học mác xít và là tiền bối của nhiều trào lưu triết học phương Tây hiện đại.
- Nét nổi bật trong triết học Cantơ là quan niệm biện chứng về giới tự nhiên. Trong tác phẩm Lịch sử tự nhiên phổ thông và lý thuyết bầu trời, ông  đã giả thuyết rằng vũ trụ hình thành do cơn lốc và sự kết tụ của các khối tinh vân.
- Cantơ thừa nhận sự tồn tại của hai thế giới: thế giới vật tự nó và thế giới vật cho ta. Thế giới vật tự nó ở bên ngoài con người và có thể tác động vào giác quan con người. Còn thế giới vật cho ta là thế giới những vật thể mà mà con người có thể thấy được… phù hợp với cái cảm giác và tri thức do lý tính của con người tạo ra. Như vậy, ở phương diện này, triết học Cantơ là triết học nhị nguyên.
- Trong lĩnh vực nhận thức luận, Cantơ là người theo thuyết không thể biết. Theo ông, nhận thức con người chỉ biết được hiện tượng bề ngoài mà không xâm nhập được vào bản chất đích thực của sự vật, không phán xét được gì về sự vật như tự thân chúng tồn tại. Sở dĩ như vậy vì Cantơ cho rằng cảm giác và tri thức của con người chỉ có thấy được thế giới vật cho ta mà không cung cấp hiểu biết gì về thế giới vật tự nó.
* Hêghen (1770 - 1831)
Hêghen là nhà biện chứng xuất sắc đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết học của ông đầy mâu thuẫn. Nếu như phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý chứa đựng thiên tài về sự phát triển thì hệ thống triết học duy tâm của ông lại phủ nhận những nguyên nhân khách quan bên trong vốn có của sự phát triển tự nhiên và xã hội.
- Hêghen cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới. Sự phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại khách quan, vĩnh viễn.
- Công lao to lớn của Hêghen là đưa ra phép biện chứng. Ông đã phê phán tư duy siêu hình và lần đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động và biến đổi không ngừng.
+ Hêghen đã trình bày những quy luật, phạm trù của phép biện chứng chẳng hạn như quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật phủ định của phủ định, các phạm trù như chất, lượng, mâu thuẫn, phủ định.
+ Phép biện chứng của Hêghen mặc dù mang nhiều ý nghĩa tích cực nhưng lại mặc phải hạn chế to lớn là dựa trên nền tảng thế giới quan duy tâm. Những quy luật vận động và phát triển ông nêu ra rất sâu sắc nhưng chỉ là sự vận động, phát triển của bản thân tư duy, ý niệm tuyệt đối.
Trong hệ thống triết học của Hêghen, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên, xã hội mà ngược lại tự nhiên, xã hội phát triển trong sự phụ thuộc vào ý niệm tuyệt đối.
Theo C. Mác, ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất, chỉ cần dựng lại sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí đó.
- Quan điểm về xã hội: Hêghen đã đứng trên lập trường các dân tộc chủ nghĩa sôvanh, đề cao dân tộc Đức, miệt thị các dân tộc khác, coi nước Đức là "hiện thân của tinh thần vũ trụ mới". Chế độ nhà nước Phổ đương thời được Hêghen xem nó như đỉnh cao của sự phát triển nhà nước và pháp luật.
* Phoiơbắc (1804 - 1872)
Phoiơbắc là một trong những nhà duy vật lớn của triết học cổ điển Đức. Phoiơbắc từng tham gia hoạt động trong phái Hêghen trẻ. Về sau ông tách khỏi phái này, xây dựng hệ thống triết học của mình. Trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và thần học, Phoiơbắc đã phê phán mạnh mẽ triết học duy tâm của Hêghen nói riêng và chủ nghĩa duy tâm nói chung, khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết học duy vật.
- Khi chống lại luận điểm duy tâm của Hêghen coi giới tự nhiên là "tồn tại khác" của tinh thần, Phoiơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất; giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào.
Phoiơbắc chống lại quan điểm nhị nguyên tách rời tinh thần và thể xác và coi ý thức tinh thần cũng là một thuộc tính của vật chất có tổ chức cao là óc người. Từ đó cho phép khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa tồn tại và tư duy. Ông cũng đấu tranh chống những quan điểm duy vật tầm thường quy các hiện tượng tâm lý tinh thần về các quá trình lý hoá, không thấy sự khác nhau về chất giữa chúng, chẳng hạn như coi óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật.
- Phoiơbắc phủ nhận vai trò của Thượng đế, tinh thần tuyệt đối và cho rằng con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của tiến trình phát triển của tự nhiên. Ông khẳng định: "Không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính con người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người".
- Hạn chế của của Phoiơbắc là đã tuyệt đối hoá mặt sinh học mà tách rời con người khỏi các mối quan hệ xã hội. Do vậy, con người theo quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, thiếu những tính quy định về mặt xã hội và lịch sử. Mặt khác, khi đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, ông đã vứt bỏ luôn cả phép biện chứng mà không thấy được hạt nhân hợp lý trong đó.

CHƯƠNG III
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CHO SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC MÁC
1. Điều kiện kinh tế – xã hội
- Đặc điểm kinh tế – xã hội nổi bật của các nước Tây Âu trong thời kỳ này là sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất do tác động của cách mạng công nghiệp làm phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng được củng cố vững chắc.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất bên cạnh việc củng cố phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng làm cho những mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, những cuộc xung đột giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
- Trong hoàn cảnh đó giai cấp vô sản đã xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tính cách là một lực lượng chính trị – xã hội độc lập. Sự phát triển của giai cấp vô sản và phong trào công nhân quốc tế đã xuất hiện nhu cầu lý luận mới nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn của thời đại đặt ra.
2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
a) Nguồn gốc lý luận
- Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu của Hêghen và Phoiơbắc là  nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
- Kinh tế chính trị học cổ điển Anh không những là nguồn gốc để xây dựng các học thuyết kinh tế mà còn là nhân tố không thể thiếu được trong sự hình thành và phát triển triết học Mác.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác.
b) Những tiền đề khoa học tự nhiên
Ngoài điều kiện kinh tế - xã hội, nguồn gốc lý luận, sự ra đời của triết học Mác - Lênin còn được chuẩn bị bởi sự phát triển của khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX.
Trong số những phát minh của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX phải kể đến ba phát minh có ý nghĩa quan trọng nhất đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng, đó là: Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết về cấu tạo tế bào và học thuyết tiến hoá của Đácuyn.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1. C.Mác, Ph. Ăngghen và quá trình chuyển biến tư tưởng của các ông từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản (1824 - 1844)
- Bước đầu hoạt động chính trị - xã hội và khoa học của C. Mác và Ph. Ăngghen
+ Các Mác (1818 - 1883) sinh trưởng trong một gia đình trí thức ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng chịu nhiều ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp. Thời học sinh, sinh viên với những ảnh hưởng tích cực của gia đình, nhà trường và của các quan hệ xã hội khác đã làm hình thành và phát triển ở Mác tinh thần nhân đạo và yêu tự do.
Từ năm 1837 – 1841, Mác làm quen với triết học và chịu ảnh hưởng của triết học duy tâm Hêghen. Tuy nhiên, trong luận án tiến sỹ với đề tài Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya, Mác đã thể hiện những tư tưởng tiến bộ và vô thần của mình, ông coi nhiệm vụ của triết học là phải phục vụ cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con người.
+ Phriđơrich Ăngghen (1820 – 1895) sinh ra trong một gia đình chủ xưởng dệt ở thành phố Bacmen. Khi còn là học sinh trung học, Ăngghen đã căm ghét sự chuyên chế và độc đoán của bọn quan lại, ông kiên trì tự học, nuôi ý chí làm khoa học và hoạt động cải biến xã hội bằng cách mạng.
Năm 1841, trong khi làm nghĩa vụ quân sự ở Béclin, Ăngghen đã nghiên cứu triết học và tham gia nhóm Hêghen trẻ. Cũng như C. Mác, Ph. Ăngghen coi nhiệm vụ của triết học phải gắn với cuộc đấu tranh chính trị thực tiễn.
- Sự chuyển biến tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học
+ Bước chuyển biến tư tưởng đầu tiên của C. Mác diễn ra trong thời kỳ làm việc tại báo Sông Ranh (5 /1842 - mùa Xuân 1843).
Thực tiễn đấu tranh trên báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở  C. Mác thể hiện rõ ràng hơn. Với nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý tưởng tự do trong thực tế và qua quá trình kiểm tra lý luận trong thực tiễn, ở Mác nảy nở khuynh hướng duy vật. Tinh thần dân chủ cách mạng sâu sắc đã không còn dung hợp với triết học duy tâm tư biện.
Từ năm 1943, với việc phê phán triết học Hêghen, việc khái quát những kinh nghiệm lịch sử, cùng những ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phơbách đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong tư tưởng của Mác.
+ Cuối tháng 10/ 1843, C. Mác sang Pari để xuất bản niên giám Pháp - Đức. Tại đây, ông đã được tiếp xúc với không khí chính trị sôi động và nhiều đại biểu trong phong trào công nhân. Chính điều này đã dẫn đến bước chuyển dứt khoát của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
Trong tác tác phẩm của mình, bước chuyển dứt khoát của Mác thể hiện rõ rệt khi ông phân tích một cách sâu sắc ý nghĩa cũng như hạn chế của cuộc cách mạng tư sản, phác thảo những nét đầu tiên về cuộc cách mạng vô sản và khẳng định rằng "cái khả năng tích cực" của cách mạng đó là giai cấp vô sản.
Mác cũng nhấn mạnh sự thống nhất biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Theo Mác, gắn bó với cuộc đấu tranh cách mạng, lý luận tiên phong có ý nghĩa cách mạng to lớn và “trở thành một sức mạnh vật chất”. Tinh thần biện chứng duy vật trong tư tưởng triết học Mác còn được thể hiện ở việc phân tích hai mặt của tôn giáo, bản chất của tôn giáo với luận đề nổi tiếng “ Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844 – 1848)
- Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế – triết học (1844), C. Mác đã nghiên cứu có phê phán kinh tế chính trị cổ điển Anh và tiếp tục phê phán triết học duy tâm của Hêghen, đồng thời vạch ra “mặt tích cực” của nó là phép biện chứng.  Trong khi phân tích phạm trù “lao động bị tha hoá”, Mác đã nêu ra quan điểm triết học mới của mình đối lập với quan điểm của Hêghen và Phoiơbắc. Ông cắt nghĩa sự tha hoá bản thân con người và vạch ra con đường khắc phục sự tha hoá đó. Từ đó, Mác đã luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trong sự phát triển xã hội. Ông đã nhận thức chủ nghĩa cộng sản như một nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản.
- Tác phẩm Gia đình thần thánh (1845) do Mác và Ănghen viết chung đã phê phán một cách có hệ thống quan điểm sai lầm của phái Hêghen trẻ đứng đầu là anh em nhà Bauơ. Hai ông cũng đề xuất một số nguyên lý cơ bản của triết học Mácxit và của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm này đã chứa đựng "quan điểm hầu như đã hình thành của Mác về vai trò cách mạng của giai cấp vô sản", đồng thời cũng tiến gần đến tư tưởng về những quan hệ sản xuất, tư tưởng giữ vai trò cơ bản trong  toàn bộ hệ thống triết học Mác.
- Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức (1845 – 1846) do Mác và Ăngghen viết chung đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hình thành triết học Mác. Đây không chỉ là tác phẩm có quy mô lớn nhất trong thời kỳ hình thành triết học Mác mà còn có thể xem như là tác phẩm chín muồi đầu tiên của chủ nghĩa Mác. Ở đó, Mác và Ăngghen đã trình bày quan niệm duy vật về lịch sử một cách có hệ thống và nhiều nguyên lý cơ bản của nghĩa cộng sản khoa học như những hệ quả của các quan niệm ấy. Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức đã đánh dấu sự hình thành quan niệm duy vật về lịch sử.
- Qua hai tác phẩm Sự khốn cùng của triết học (1847) và Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848), chủ nghĩa Mác được trình bày như một chỉnh thể các quan điểm lý luận nền tảng với ba bộ phận hợp thành của nó.
+ Trong Sự khốn cùng của triết học, Mác tiếp tục đề xuất các nguyên lý triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học.
+ Tuyên ngôn Đảng cộng sản là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trong đó cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan điểm kinh tế và các quan điểm chính trị, xã hội.
Như vậy, trong giai đoạn 1844 – 1848, C. Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện thành công cuộc cách mạng trong triết học, trình bày những nội dung cơ bản của thế giới quan triết học mới trong những tác phẩm của mình. Hai ông đã áp dụng triệt để chủ nghĩa duy vật vào đời sống xã hội, khắc phục quan điểm siêu hình, gắn liền triết học với thực tiễn xã hội.
3. Giai đoạn C. Mác và Ph. Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết học (1848 - 1895)
Sự phát triển của học thuyết Mác từ sau Tuyên ngôn của Đảng cộng sản luôn gắn bó mật thiết hơn nữa với thực tiễn cách mạng mà C. Mác và Ph. Ăngghen vừa là lãnh tụ vừa là đại biểu tư tưởng. Bằng hoạt động lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát trở thành tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ. Cũng trong quá trình đó học thuyết của các ông không ngừng được bổ sung, phát triển.
- C. Mác đã viết nhiều tác phẩm để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân, điều  đó có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
+  Nhiều nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử  được làm sáng tỏ trong tác phẩm Ngày mười tám tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ như: nguyên lý đấu tranh giai cấp là động lực của sự phát triển xã hội, về nhà nước và cách mạng, nguyên lý về tính tất yếu của chuyên chính vô sản.
+ Trong bộ Tư bản, C. Mác đã phát triển nhiều vấn đề triết học đặc biệt là phương pháp luận biện chứng và duy vật lịch sử.
+ Tác phẩm Nội chiến ở Pháp đã tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của Công xã Pari và tiếp tục phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử như nhà nước và cách mạng, tính tất yếu của chuyên chính vô sản.
+ C. Mác cũng làm sâu sắc và phong phú thêm học thuyết hình thái kinh tế xã hội, đồng thời trong tác phẩm Cương lĩnh Gôta lần đầu tiên ông trình bày tư tưởng về hai giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
- Ph. Ănghen đã bổ sung và phát triển triết học Mác thông qua việc khái quát các thành tựu khoa học và phê phán các lý luận triết học duy tâm, siêu hình và cả những quan niệm duy vật tầm thường của những người tự nhận là người mácxít nhưng không hiểu thực chất của triết học Mác.
Với những tác phẩm chủ yếu của mình như Cách mạng và phản cách mạng ở Đức; Chống Duyrinh; Biện chứng của tự nhiên; Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước; Lutvích Phoiơbắc và sự cáo chung của nền triết học cổ điển Đức..., Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác nói chung, triết học Mác nói riêng dưới dạng một hệ thống lý luận. Trong đó hai tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước; Lutvích Phoiơbắc và sự cáo chung của nền triết học cổ điển Đức được Ăngghen viết sau khi Mác mất đồng thời với việc tập trung trí tuệ và sức lực để chuẩn bị xuất bản tập hai và tập ba bộ Tư bản.
4. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện
- C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Trong đó, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
- Thành tựu vĩ đại cũng như biểu hiện quan trọng nhất của bước chuyển cách mạng trong triết học do C. Mác và Ăngghen thực hiện là đưa ra quan niệm duy vật về  lịch sử,  từ việc nhận thức giới tự nhiên đi đến nhận thức xã hội loài người.
- Trong triết học Mác, lý luận và thực tiễn gắn bó chặt chẽ và  thống nhất biện chứng với nhau. Thực tiễn được xem là cơ sở quyết định sự phát triển của nhận thức lý luận. Ngược lại lý luận là sự phản ánh thực tiễn xã hội, đồng thời có vai trò tích cực đối với hoạt động thực tiễn. Triết học Mác đã đóng vai trò là vũ khí lý luận để cải tạo thế giới, cải tạo thực tiễn.
- Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân.
- Triết học Mác chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học duy tâm coi triết học là "khoa học của các khoa học", đứng trên mọi khoa học và khẳng định triết học chỉ giữ vai trò định hướng cho các khoa học khác.
5. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác
V.I. Lênin (1870 - 1924) là người có công lao to lớn trong sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
- Với những tác phẩm như: Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ – xã hội ra sao? Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của Xtơruvê về nội dung đó, Lênin đã đã bảo vệ chủ nghĩa Mác khỏi sự xuyên tạc của những người thuộc phái dân túy Nga vào những năm 90 của thế kỷ XIX, phê phán quan điểm duy tâm chủ quan về lịch sử và vạch trần bản chất phản cách mạng, giả danh bạn dân của họ. Ông cũng làm phong phú thêm quan điểm duy vật về lịch sử, nhất là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội.
- Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (1909), Lênin đã phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của những người theo chủ nghĩa Makhơ đồng thời bổ sung, phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Cũng trong tác phẩm trên, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất với tính cách là một phạm trù triết học và làm sâu sắc thêm nhiều vấn đề căn bản của nhận thức luận mácxít.
- Tác phẩm Bút ký triết học (1914 – 1915) của Lênin đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến việc nghiên cứu về phép biện chứng, nhất là ở triết học Hêghen. Ông đã tiếp tục khai thác cái "hạt nhân hợp lý" của triết học Hêghen để làm phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất của các mặt đối lập. Mặt khác, Lênin cũng có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác và triết học xã hội như vấn đề nhà nước, cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới...
Như vậy, có thể nói để bảo vệ chủ nghĩa Mác, Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng đối với mọi kẻ thù của chủ nghĩa Mác, kể cả những người nhân danh lý luận của Mác nhưng thực tế là chủ nghĩa xét lại, hoặc đã ra rời học thuyết của Mác. Bên cạnh đó, Lênin chú trọng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và dựa vào những thành quả mới nhất của khoa học để bổ sung, phát triển di sản lý luận của chủ nghĩa Mác.


CHƯƠNG IV
MỘT SỐ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC
PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI

Từ đầu thế kỷ XX, nhất là từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, triết học phương Tây hiện đại không ngừng phân hoá thành nhiều trường phái, nhưng xoay quanh hai trào lưu chủ yếu là chủ nghĩa duy khoa họcchủ nghĩa nhân bản phi duy lý.
1. Chủ nghĩa thực chứng
- Chủ nghĩa thực chứng ra đời từ thế kỷ XIX, là trường phái triết học theo chủ nghĩa duy khoa học. Các nhà triết học thực chứng không thừa nhận bản chất của sự vật, lẩn tránh vấn đề cơ bản của triết học và cho rằng chỉ có các hiện tượng hoặc sự kiện mới là “cái  thực chứng”.
- Vào thế kỷ XX, chịu ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đặc biệt là hình học phi Ơclít, thuyết tương đối, cơ học lượng tử, một số nhà triết học thực chứng chủ trương logíc học hoá triết học, cho rằng nội dung chủ yếu của triết học là nghiên cứu các phương pháp toán học, phương pháp logíc toán. Trong đó có trường phái nhấn mạnh việc phân tích ngôn ngữ được gọi là chủ nghĩa thực chứng mới hoặc triết học phân tích.
- Triết học phân tích được phân chia thành các chi phái lớn, bao gồm:
+ Chủ nghĩa kinh nghiệm logíc hay chủ nghĩa thực chứng logíc: trường phái này đem quy các các tri thức thành mệnh đề có thể dùng logíc toán để biểu thị.
+ Phái ngôn ngữ học thường ngày: trường phái này nhấn mạnh tính phong phú của khái niệm và phân biệt tỉ mỉ giữa các khái niệm trong ngôn ngữ tự nhiên.
Chủ nghĩa duy khoa học trong đó có chủ nghĩa thực chứng đã có công nghiên cứu tiếp thu nhiều thành quả của khoa học tự nhiên, nêu ra nhiều hướng mới cho triết học duy vật và phép biện chứng. Tuy nhiên, hạn chế của họ là phủ nhận ý nghĩa thế giới quan của triết học và như vậy là phủ nhận bản thân triết học.
2. Chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là trường phái triết học theo chủ nghĩa nhân bản phi duy lý với các đại biểu nổi tiếng là Hâyđơgơ, Xáctơrơ, Giaxpơ, Macxen. Đây là trường phái triết học rất phức tạp với nhiều quan điểm khác nhau nhưng có điểm chung là đều coi sự hiện sinh của cá nhân là nội dung cơ bản trong triết học của mình.
- Bản thể luận: Chủ nghĩa hiện sinh coi bản thể luận trung tâm của triết học là sự cảm thụ chủ quan và thái độ ứng xử của cá nhân. Họ phân biệt hai khái niệm hữu thể và hiện hữu (hiện sinh). Hữu thể là khái niệm chỉ một cái gì đó đang tồn tại, nhưng không cụ thể, chưa có diện mạo, cá tính, là tồn tại chưa sống đích thực, vô hồn. Hiện hữu là khái niệm chỉ một cái gì đó không những đang tồn tại mà đang sống đích thực với diện mạo riêng. Hiện sinh không phải giới tự nhiên hoặc sự vật, mà là con người, bởi vì chỉ có con người mới có thể hiểu được sự tồn tại của bản thân và của sự vật khác.
- Nhận thức luận: Các nhà triết học hiện sinh không chú trọng nhận thức khoa học mà cho rằng để đạt đến hiện sinh chân chính chỉ có thể dựa vào trực giác phi lý tính. Chỉ có trong cuộc sống đau khổ, cô đơn, tuyệt vọng, sợ hãi… thì con người mới trực tiếp cảm nhận được sự tồn tại của mình. Như vậy, nhận thức luận của chủ nghĩa hiện sinh là nhận thức luận duy tâm chủ quan phi duy lý.
- Vấn đề luân lý: Chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức quyết định luận trong đạo đức, phủ nhận sự tồn tại phổ biến của những nguyên tắc đạo đức và cho rằng tự do là bản chất của sự hiện sinh của cá nhân con người. Đây là quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
- Quan điểm lịch sử xã hội: Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh của cá nhân. Khi xã hội và cá nhân có liên hệ chặt chẽ thì cá nhân bị mất cá tính do bị ràng buộc, tồn tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người. Đề khôi phục hiện sinh thì cần thoát khỏi sự ràng buộc của người khác và xã hội. Động lực phát triển xã hội là ở hiện sinh mỗi con người.
3. Chủ nghĩa Phơrớt
Chủ nghĩa Phơrớt do nhà tâm lý người Áo, Phơrớt sáng lập, là trường phái triết học nhân bản phi duy lý có ảnh hưởng rất lớn. Quan điểm của chủ nghĩa Phơrớt cũng rất đa dạng nhưng có thể xem xét ở một vài khía cạnh sau đây:
- Lý luận về vô thức: Phơrớt chia quá trình tâm lý con người ra làm ba bậc: ý thức, tiềm thức và vô thức. Vô thức là hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí, do bản năng, thói quen và dục vọng của con người gây ra. Ông đề cao vô thức và cho rằng đó mới là căn cứ hành vi của con người.
- Lý luận về nhân cách: Phơrớt đưa ra ba khái niệm “cái ấy”, “cái tôi” và “cái siêu tôi”.
+ Cái ấy là sự thể hiện của tính dục, bản năng đầu tiên của con người đòi hỏi bộc lộ và thoả mãn một cách mãnh liệt.
+ Cái tôi là hệ thống ý thức, đứng giữa cái ấy với cái bên ngoài, điều tiết sự xung đột giữa cái ấy với cái bên ngoài.
+ Cái siêu tôi là đại diện của xã hội, của lý tưởng và của uy thế bên ngoài trong tâm lý con người. Cái siêu tôi khuyến khích đấu tranh giữa cái tôi và cái ấy. Trạng thái tâm lý bình thường của con người là người giữ được cân bằng giữa cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi.
- Thuyết tính dục: Tính dục là nghĩa rộng bao gồm mọi loại khoái cảm. Phơrớt coi đó là cơ sở duy nhất cho các hoạt động của con người.
4. Chủ nghĩa Tôma mới
Đây là hình thái mới của triết học Thiên Chúa giáo xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX bắt nguồn từ học thuyết của Thánh Tôma ở Akinô. Hệ thống triết học này lấy Chúa làm nòng cốt, đức tin làm tiền đề, lấy thần học làm căn cứ.
- Nhận thức luận: Chủ nghĩa Tôma mới cho rằng tri thức lý tính phù hợp với đức tin của con người.
- Về triết học tự nhiên: Chủ nghĩa Tôma mới khẳng định việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên là quá trình không ngừng phát hiện ra ra Chúa, không phủ nhận Chúa. Vì vậy, khoa học và thần học đã hợp tác để phát hiện và chứng minh tính vĩnh hằng của Chúa.
- Lý luận chính trị xã hội: chủ nghĩa Tôma mới phủ nhận sự tồn tại của giai cấp, chủ trương thuyết tính người trừu tượng, coi trần thế là tạm thời, cuộc sống tương lai mới là vĩnh hằng.
5. Chủ nghĩa thực dụng
Chủ nghĩa thực dụng ra đời vào cuối thế kỷ XIX, người sáng lập ra chủ nghĩa thực dụng là Piếcxơ, một trong những đại biểu chủ yếu của nó là Giêmxơ.
- Phương pháp luận: nguyên tắc căn bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu quả, công dụng làm tiêu chuẩn. Một đặc điểm làm chủ nghĩa thực dụng khác với triết học truyền thống là nó đi vào triết học từ phương pháp.
- Về nhận thức luận: Chủ nghĩa thực dụng nói đến phương pháp tư duy đặc thù, phương thức tư duy không xem xét khái niệm ở bản thân khái niệm mà đi nghiên cứu xem khi được sử dụng thì nó sản sinh ra hậu quả gì.
- Quan niệm về chân lý: Chủ nghĩa thực dụng khẳng định hữu dụng là chân lý, lấy hữu dụng và vô dụng để phân biệt chân lý với sai lầm.
6. Một số nhận định về triết học phương Tây hiện đại
- Triết học phương Tây hiện đại có ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, coi trọng việc nghiên cứu những vấn đề mới về con người.
- Phê phán và từ bỏ chủ nghĩa lý tính cực đoan siêu hình của triết học để chuyển mạnh sang thế giới đời sống hiện thực với hai loại chủ đề nổi bật: con người và khoa học.
- Sớm đi vào các vấn đề toàn cầu và dự đoán tương lai nhân loại.

CHƯƠNG V
 VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

I. VẬT CHẤT VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT
1. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy tâm tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ở “ý niệm tuyệt đối” hay ở ý thức con người. Chủ nghĩa duy vật xem bản chất thế giới là vật chất. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ khác nhau, quan niệm về tính thống nhất vật chất của thế giới khác nhau.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều này thể hiện ở các luận điểm sau:
- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
- Mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau: Đều là những dạng vật chất cụ thể. Có kết cấu vật chất hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
 - Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không sinh ra và mất đi. Trong thế giới vật chất không ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính thống nhất vật chất của thế giới đã được khoa học chứng minh qua các thành tựu như: Thuyết tế bào, định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tiến hóa...
2. Vật chất
a) Lược khảo các quan điểm trước Mác về vật chất
- Theo chủ nghĩa duy tâm: vật chất bắt nguồn từ bản nguyên tinh thần nào đó. Có thể là “ý chí của Thượng đế” hay “ý niệm tuyệt đối”.
- Theo chủ nghĩa duy vật: Thực thể của thế giới là vật chất, tồn tại vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
+ Vào thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
+ Đến thế kỷ 17-18, khoa học tự nhiên – thực nghiệm châu Âu đặc biệt là cơ học phát triển mạnh với nhiều phát minh có ý nghĩa to lớn, quan điểm thống trị trong triết học và khoa học tự nhiên thời bấy giờ là quan điểm siêu hình – máy móc. Niềm tin vào các chân lý trong cơ học Niutơn đã khiến các nhà duy vật thời kỳ này đồng nhất vật chất với khối lượng. Song song đó, vào thời kỳ này, thuyết nguyên tử của Đêmôcrít vẫn còn sức sống, do đó các nhà triết học duy vật cận đại vẫn tiếp tục coi vật chất là nguyên tử.
Như vậy, cho đến giữa thế kỷ XIX, quan niệm về vật chất vẫn còn gắn liền với tính bất biến, không phân chia của nguyên tử, vẫn còn gắn liền với sự đồng nhất giữa vật chất với khối lượng.
b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, việc xuất hiện những phát minh mới trong khoa học tự nhiên giúp con người hiểu sâu sắc hơn về nguyên tử.
+ Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X.
+ Năm 1896, Beccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
+ Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử (electron).
+ Năm 1901, Kaufman chứng minh khối lượng của điện tử không phải là khối lượng tĩnh mà khối lượng động, khối lượng của điện tử thay đổi theo tốc độ vận động của nó.
Với hàng loạt những phát minh mang tính “vạch thời đại” trên đã làm đảo lộn những hiểu biết về vật chất trước đây. Những quan niệm đương thời về giới hạn tột cùng của vật chất là nguyên tử hay khối lượng bị sụp đổ. Vấn đề là ở chỗ, trong nhận thức lúc đó, các hạt điện tích và trường điện từ coi  là cái gì đó phi vật chất. Do vậy, chủ nghĩa duy tâm lợi dụng sự khủng hoảng này và cho rằng “vật chất” đã biến mất, nền tảng của chủ nghĩa duy vật sụp đổ.
Trước tình hình đó, Lênin đã khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên và đưa ra định nghĩa vật chất : "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"[1]
- Ở định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng :
+ Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học khác với các quan niệm của các khoa học cụ thể nghiên cứu về vật chất. Phạm trù vật chất dùng để chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi. Còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, nó sinh ra, mất đi và chuyển hoá thành cái khác. Do đó, không quy vật chất nói chung về vật thể hay những những thuộc tính của nó.
+ Đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan, tức là “cái đang tồn tại độc lập đối với loài người và cảm giác của con người”. Đây là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt vật chất với cái gì không phải là vật chất.
- Nội dung định nghĩa:
+ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hay trực tiếp tác động lên giác quan của con người.
+ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
-  Ý nghĩa của định nghĩa:
+ Định nghĩa giải quyết được vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm duy vật.
+ Định nghĩa đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất, đấu tranh với những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất, góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng về mặt thế giới quan diễn ra cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, từ đó góp phần thúc đẩy khoa học phát triển.
+ Định nghĩa cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội.
3. Những phương thức tồn tại của vật chất
a) Vận động
Theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”[2].
Ăngghen khẳng định: "Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất". Có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, vận động tự thân, vận động không được sinh ra mà cũng không bị mất đi. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình.
Có 5 hình thức vận động cơ bản theo cấp độ từ thấp đến cao, bao gồm: Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); Vận động vật lý (vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, điện tử); Vận động hoá học (vận động của các nguyên tử, các  quá trình hóa hợp và phân giải các chất); Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường); Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế – xã hội).
Giữa các hình thức vận động có mối quan hệ với nhau: Các hình thức vận động khác nhau về chất, về trình độ, hình thức vận động cao bao giờ cũng bao hàm hình thức vận động thấp nhưng không có chiều ngược lại. Mỗi sự vật gắn liền với nhiều hình thức vận động nhưng bản thân sự tồn tại sự vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng hình thức vận động cơ bản.
Quá trình vận động của thế giới vật chất luôn bao hàm hiện tượng đứng im tương đối, nếu không có đứng im tương đối thì sự vật không thể tồn tại. Đó là sự trạng thái cân bằng trong vận động, điều đó thể hiện như sau:
+ Hiện tượng đứng im tương đối chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải xảy ra mọi quan hệ cùng một lúc.
 + Đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không xảy ra với mọi hình thái vận động cùng một lúc.
b) Không gian và thời gian
- Không gian: Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng chiếm một vị trí nhất định, có một kích thước nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan với những khách thể khác. Các hình thức tồn tại như vậy của khách thể vật chất được gọi là không gian.
- Thời gian: Bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng tồn tại ở mức độ lâu dài hay mau chóng, sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động. Các hình thức tồn tại như vậy của khách thể vật chất được gọi là thời gian.
- Không gian và thời gian là thuộc tính vốn có, là hình thức tồn tại khách quan của vật chất vận động và phụ thuộc vào vật chất vận động. Không có không gian và thời gian thuần túy bên ngoài vật chất.
Tính chất của không gian và thời gian:
+ Tính khách quan.
+ Tính vĩnh cửu và vô tận.                                                     
+ Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
II. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
1. Nguồn gốc của ý thức
a) Nguồn gốc tự nhiên
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người. Nội dung của ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan (hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan) vào bộ óc người. Như vậy, bộ óc người cùng thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b) Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội là điều kiện quyết định cho sự ra đời ý thức, nó bao gồm: lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm cải tạo ra những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình.
Lao động là phương thức tồn tại của con người, đồng thời lao động sáng tạo ra bản thân con người, làm con người tách khỏi giới động vật. Thông qua lao động con người chủ động tác động vào thế giới khách quan làm cho nó bộc lộ bản chất, quy luật để con người nhận thức. Chính quá trình này mà con người mới có thể phản ánh thế giới khách quan và hiểu biết về nó. Có thể nói, ý thức hình thành chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan.
- Ngôn ngữ xuất hiện là do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, nó là cái vỏ vật chất của tư duy là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ con người không có ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) nó là công cụ giao tiếp, đồng thời là công cụ của tư duy.
Tóm lại, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
2. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy tâm đã cường điệu vai trò của ý thức, cho rằng ý thức sinh ra vật chất. Chủ nghĩa duy vật trước Mác cũng thấy ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan nhưng sự phản ánh đó thụ động, giản đơn, máy móc... không thấy tính năng động sáng tạo của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh tinh thần của thế giới khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan chi phối và không có tính vật chất. Do đó, không thể tách rời hay đồng nhất giữa cái được phản ánh - vật chất và cái phản ánh - ý thức.
 Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện rất phong phú: Trên cơ sở những cái đã có, nó tạo ra tri thức mới về sự vật hay có thể tiên đoán, dự báo tương lai; tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao, thậm chí ở một số người có những khả năng đặc biệt, như tiên tri, thôi miên, ngoại cảm, thấu thị...
Ý thức là một hiện tượng xã hội, bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội cho nên phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. Ý thức mang bản chất xã hội.
3. Kết cấu của ý thức
a) Theo các yếu tố hợp thành
Ý thức bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí ... trong đó tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi.
- Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.
Tri thức có nhiều lĩnh vực về tự nhiên, về xã hội, về con người và có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức cảm tính (tri thức thông thường), tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận ... Để cải tạo tự nhiên, xã hội con người phải có hiểu biết về thế giới, có tri thức về sự vật. Do đó, mọi hiện tượng ý thức đều có nội dung tri thức ở mức độ nhất định. Ý thức mà không bao hàm tri thức, không dựa vào tri thức thì ý thức đó là sự trừu tượng, trống rỗng không giúp ích cho con người trong hoạt động thực tiễn.
- Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh và đối với bản thân mình.
Tình cảm phản ánh quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào hoạt động của con người và trở thành một trong những động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri thức có biến thành tình cảm mãnh liệt thì mới sâu sắc và thông qua tình cảm, nhất là tình cảm tích cực thì tri thức mới biến thành hoạt động thực tế và mới phát huy sức mạnh của mình.
b) Theo chiều sâu của nội tâm
Cách tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm của con người bao gồm các yếu tố như: tự ý thức, tiềm thức, vô thức...
- Tự ý thức là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.  Tự ý thức là ý thức của con người về những hành vi, những tình cảm, tư tưởng, động cơ, lợi ích của mình... trong xã hội.
Tự ý thức nói lên trình độ phát triển của nhân cách, thái độ làm chủ bản thân... điều chỉnh bản thân theo quy tắc, chuẩn mực xã hội đề ra. Tự ý thức không chỉ của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp mình, hay của tầng lớp mình.
- Tiềm thức là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể, song liên quan trực tiếp đến hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm soát của chủ thể ấy.
Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có từ trước nhưng đã gần như bản năng, kỷ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Cho nên có thể tự động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát chúng một cách trực tiếp.
- Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời... chức năng là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh, lập lại thế cân bằng trong hoạt động thần kinh.
Từ những vấn đề trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về ý thức như sau: Ý thức là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong óc người, phản ánh thế giới khách quan*.
III. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC - Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA MỐI QUAN HỆ NÀY
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
a) Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất sinh ra và quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong bộ não con người. Thể hiện trong xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức, không có sự tác động của thế giới khách quan vào trong bộ não người thì sẽ không có ý thức.
- Vật chất quyết định nội dung, phương thức, kết cấu của ý thức.
b) Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Sự tác động của ý thức với vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Ý thức có thể thúc đẩy hay kìm hãm sự vận động, phát triển của những điều kiện vật chất ở những mức độ khác nhau.
- Nếu ý thức phản ánh phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm thúc đẩy sự phát triển của các điều kiện vật chất.
- Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với hiện thực thì nó sẽ làm kìm hãm sự phát triển của các điều kiện vật chất. Song, sự kìm hãm đó chỉ mang tính chất tạm thời, bởi sự vật bao giờ cũng vận động theo những quy luật khách quan vốn có của nó, nên nhất định phải có ý thức tiến bộ, phù hợp thay thế cho ý thức lạc hậu, không phù hợp.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận được rút ra là: Con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
- Những mục đích, chủ trương mà chúng ta đặt ra cho hoạt động thực tiễn để đúng đắn, khả thi, phải xuất phát từ điều kiện vật chất khách quan.
Bản thân tư tưởng, dù là tư tưởng lành mạnh đến mấy, tự nó không trực tiếp thay đổi dược gì trong hiện thực cả. Lực lượng vật chất phải được đánh bại bằng lực lượng vật chất. Cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải có lực lượng vật chất.
- Không được lấy ý muốn chủ quan làm điểm xuất phát cho mục đích, không lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược. Không được lấy nhiệt tình cách mạng thay thế cho tri thức. Phải có quan điểm khách quan khi xem xét và giải quyết vấn đề.
- Ý thức có thể tác động lại vật chất thông qua hoạt động của con người, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết phát huy tính năng động chủ quan của ý thức, phát huy vai trò của tri thức, tư tưởng, vai trò của con người.

CHƯƠNG VI
HAI NGUYÊN LÝ CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
1. Khái niệm về mối liên hệ
Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
2. Các tính chất của mối liên hệ
- Tính khách quan: Mối liên hệ mang tính khách quan, là cái vốn có của các sự vật và hiện tượng. Bởi vì cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
- Tính phổ biến của mối liên hệ: Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ. Nếu không có liên hệ thì không phải là biện chứng. Sự vật không thể tồn tại và phát triển theo đúng nghĩa của nó.
-  Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: Khi nghiên cứu hiện thực khách quan, chúng ta có thể phân chia chúng ra thành từng loại tùy theo tính chất phức, phạm vi, trình độ, vai trò ... Vì thế chúng ta có thể khái quát thành nhiều mối liên hệ: Có mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ bên trong; có mối liên hệ cơ bản, có mối liên hệ không cơ bản; có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp; có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, có mối liên hệ tất nhiên, có mối liên hệ ngẫu nhiên...
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới. Vì thế, Ph. Ăngghen viết: "Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến"[3].
3. Ý nghĩa phương pháp luận
 Khi xem xét, nhận thức và tác động vào sự vật, hiện tượng phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện, một chiều.
- Khi nhận thức về sự vật phải đặt nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
- Khi nhận thức về sự vật phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối quan hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... Nghĩa là không xem xét cào bằng, tràn lan, mà phải thấy được vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Vì vậy quan điểm toàn diện bản thân nó đã bao hàm quan điểm lịch sử, cụ thể.
II. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm phát triển
Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Phát triển không khái quát mọi sự vận động mà phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Nó chỉ khái quát những vận động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Trong quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới cao hơn về chất.
2. Tính chất của sự phát triển
- Tính khách quan: Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người.
- Tính phổ biến: Sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan.
- Tính đa dạng và phong phú: Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng, phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến.
- Khi xem xét sự vật phải phân chia quá trình phát triển cuả sự vật ấy thành những giai đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó, tùy theo yêu cầu thực tiễn.
- Trong hoạt động thực tiễn, phải phát huy nhân tố chủ quan trong quá trình vận dụng quan điểm phát triển.



CHƯƠNG VII
NHỮNG CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM TRÙ
1. Định nghĩa phạm trù và phạm trù triết học
- Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực hiện thực nhất định.
- Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải một lĩnh vực nào của hiện thực mà của toàn bộ thế giới hiện thực (tự nhiên, xã hội và tư duy).
2. Bản chất của phạm trù
- Các phạm trù không có sẵn trong con người một cách bẩm sinh, tiên nghiệm, cũng như không tồn tại sẵn bên ngoài và độc lập đối với ý thức của con người mà phạm trù được hình thành trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Nội dung của phạm trù là khách quan nhưng hình thức biểu hiện của phạm trù là chủ quan (Phạm trù là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan).
- Hệ thống các phạm trù luôn được bổ sung, phát triển. Vì mọi sự vật, hiện tượng, quá trình... trong thế giới khách quan vận động, biến đổi không ngừng do đó, phạm trù phải vận động biến đổi theo nếu muốn phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan.
II. CÁI RIÊNG VÀ CÁI CHUNG
1. Khái niệm “cái riêng”, “cái chung”, và cái “đơn nhất”
- Cái riêng là phạm trù triết học được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
- Cái chung là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung không những có ở trong một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù được dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà không được lặp lại ở bất kỳ một kết cấu vật chất nào khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa “cái chung”, “cái riêng” và cái “đơn nhất”
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. 
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung.
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là bộ phận của cái riêng nhưng sâu sắc hơn cái riêng.
- Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất có thể chuyển hóa thành cái chung và ngược lại, cái chung có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất.
3. Một số kết luận về phương pháp luận
- Chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng.
- Bất cứ cái chung nào khi áp dụng vào từng trường hợp cụ thể cũng cần được cá biệt hóa (tuân theo quan điểm lịch sử – cụ thể).
- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất biến thành cái chung nếu cái đơn nhất đó có lợi và ngược lại biến cái chung thành cái đơn nhất nếu sự tồn tại của cái chung không còn là điều mong muốn.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả
Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt bên trong của một sự vật hoặc tác động giữa các sự vật gây ra những biến đổi nhất định. Kết quả là phạm trù để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự với nhau.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
-  Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả. Cùng một nguyên nhân có thể gây nên nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể. Ngược lại, một kết quả có thể được gây nên bởi những nguyên nhân khác nhau tác động riêng lẻ hay tác động cùng một lúc.
Khi các nguyên nhân tác động cùng một lúc lên sự vật thì hiệu quả tác động của từng nguyên nhân tới sự hình thành kết quả sẽ khác nhau tùy thuộc vào hướng tác động của nó. Nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo cùng một hướng thì chúng sẽ gây nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân khác nhau tác động lên sự vật theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân, trái lại, nó có ảnh hưởng tích cực ngược trở lại đối với nguyên nhân. Sự tác động ngược lại đó theo hai hướng: Thúc đẩy hay kìm hãm, tích cực hay tiêu cực.
-  Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa cho nhau. Một hiện tượng nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối liên hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Một hiện tượng nào đó với tính cách là kết quả do một nguyên nhân nào đó sinh ra, đến lượt mình lại trở thành nguyên nhân sinh ra hiện tượng thứ ba... và quá trình cứ như thế tiếp tục mãi không bao giờ kết thúc, tạo nên một chuỗi nhân quả vô cùng tận.
3.  Một số kết luận về phương pháp luận
- Chỉ có thể tìm nguyên nhân của hiện tượng trong chính thế giới các hiện tượng chứ không thể ở ngoài nó. Khi tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đó cầm tìm trong những mặt, những sự kiện, những mối liên hệ đã xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
- Khi xác định nguyên nhân của hiện tượng nào đó cần hết sức tỉ mỉ, thận trọng. Khi xem xét tác dụng của nguyên nhân và kết quả cần phải đặt chúng trong không gian và thời gian cụ thể.
- Muốn loại bỏ một hiện tượng nào đó cần loại bỏ nguyên nhân làm nảy sinh ra nó. Muốn cho một hiện tượng xuất hiện cần tạo ra nguyên nhân cùng những điều kiện cần thiết cho nguyên nhân sinh ra hiện tượng ấy phát sinh tác dụng.
- Để đẩy nhanh (hay kìm hãm hoặc loại trừ) sự biến đổi của một hiện tượng nào đó cần làm cho các nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều (hay lệch chiều hoặc ngược chiều) với chiều vận động của mối quan hệ nhân quả khách quan.
IV.  TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN
1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái bên ngoài, cái do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định, do đó có thể xảy ra, có thể không xảy ra, có thể xảy ra như thế này, cũng có thể xảy ra như  thế khác.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
- Cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập đối với ý thức của con người. Cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật, thì cái ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến sự phát triển ấy, ngẫu nhiên có thể làm cho sự phát triển ấy diễn ra nhanh hay chậm.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại thống nhất hữu cơ với nhau. Cái tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên, còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hóa lẫn nhau, tất nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngẫu nhiên trở thành tất nhiên. Chính vì thế, ranh giới giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên chỉ có tính chất tương đối.
3. Một số kết luận về phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào cái tất nhiên chứ không dựa vào cái ngẫu nhiên đồng thời cũng phải chú ý đến cái ngẫu nhiên. Trong hoạt động thực tiễn cần có các phương án dự phòng cho trường hợp các sự biến ngẫu nhiên bất ngờ xuất hiện.
- Muốn nhận thức cái tất nhiên cần bắt đầu từ cái ngẫu nhiên và phải nghiên cứu qua rất nhiều cái ngẫu nhiên, chú ý tìm ra cái tất nhiên ẩn giấu đằng sau những cái ngẫu nhiên đó.
- Trong những điều kiện nhất định, cái tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau. Cho nên, cần chú ý tạo điều kiện cần thiết hoặc để ngăn trở, hoặc để chuyển hóa đó diễn ra tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
V. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
1. Khái niệm nội dung và hình thức
Nội dung là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức:
+ Nội dung và hình thức hết sức gắn bó chặt chẽ nhau và là một thể thống nhất. Không có một hình thức nào lại không chứa đựng nội dung và không có nội dung nào lại không tồn tại trong hình thức.
+ Cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức khác nhau, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau.
- Vai trò quyết định của nội dung đối với hình thức trong quá trình vận động, phát triển của sự vật: Trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, nội dung bao giờ cũng là mặt động nhất. Vì vậy, nó có khuynh hướng chủ đạo biến đổi và thông thường nội dung biến đổi trước hình thức. Còn hình thức là mặt tương đối bền vững của sự vật nên khuynh hướng chủ đạo của nó ổn định và nó thường biến đổi sau nội dung. Và khi nội dung biến đổi thì hình thức cũng buộc phải biến đổi cho phù hợp với nội dung mới. 
- Sự tác động tích cực trở lại của hình thức đối với nội dung: Tuy nội dung giữ vai trò quyết định so với hình thức nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là hình thức là cái thụ động. Trái lại, hình thức luôn luôn có thể có tính độc lập nhất định và tác động tích cực trở lại đối với nội dung. Điều đó được thể hiện khi phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ mở đường và thúc đẩy sự phát triển của nội dung, trường hợp ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.
3. Một số kết luận về phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn cần chống lại mọi khuynh hướng tách rời nội dung và hình thức và chống hai thái cực sai lầm: Tuyệt đối hóa hình thức, xem thường nội dung, cho hình thức là quan trọng. Tuyệt đối hóa nội dung, xem thường hình thức.
- Cần sử dụng một cách sáng tạo mọi hình thức có thể có để phục vụ có hiệu quả cho việc thực hiện những nhiệm vụ nhất định tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Ở đây cần chống cả hai thái cực sai lầm, hoặc chỉ bám lấy hình thức cũ, bảo thủ, chỉ muốn làm theo kiểu cũ, khi chúng đã lỗi thời và đang kìm hãm sự phát triển của nội dung hoặc hoàn toàn phủ nhận vai trò của nó trong hoàn cảnh mới, chủ quan, nóng vội, thay đổi hình thức cũ một cách tùy tiện, không có căn cứ.
- Để xét đoán một sự vật nào đó, cần căn cứ trước hết vào nội dung của nó; nếu muốn làm biến đổi sự vật nào đó thì cần tác động để thay đổi trước hết nội dung của nó.
- Hoạt động thực tiễn cần luôn luôn theo dõi mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của sự vật để có thể kịp thời can thiệp vào tiến trình phát triển của nó, tạo cho hình thức của sự vật một sự phù hợp cần thiết với nội dung đang biến đổi của nó nhằm thúc đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển đó tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
VI. BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng
Bản chất là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ ấy ra bên ngoài. (Hiện tượng là phạm trù chỉ những mặt, những mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định)
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất.
+ Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng, bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó hoặc nhiều hoặc ít.
- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng. Vì vậy, cùng một lúc có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của hoàn cảnh và điều kiện. Do đó, hiện tượng phong phú hơn bản chất, ngược lại, bản chất lại sâu sắc hơn hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan, còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
+ Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng không ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất. Bởi vì, nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ bởi bản chất của sự vật mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.
3. Một số kết luận về phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức để hiểu đẩy đủ và đúng đắn sự vật phải đi sâu vào bản chất chứ không dừng lại ở hiện tượng và trong hoạt động thực tiễn cần phải dựa vào bản chất chứ không dựa vào hiện tượng.
- Chỉ có thể tìm ra bản chất của sự vật ở trong chính sự vật chứ không thể ở ngoài nó, và khi kết luận vể bản chất của sự vật cần tránh những nhận định chủ quan, tùy tiện.
- Chỉ có thể tìm cái bản chất trên cơ sở nghiên cứu các hiện tượng và trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật phải xem rất nhiều hiện tượng khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau.
VII. KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC
1. Khái niệm khả năng và hiện thực
Khả năng là phạm trù dùng để chỉ những gì hiện chưa có, nhưng sẽ có, sẽ xuất hiện khi có các điều kiện tương ứng. Hiện thực là phạm trù dùng để chỉ những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
- Cùng trong một điều kiện nhất định, có thể tồn tại một số khả năng chứ không phải chỉ có một khả năng.
- Ngoài một số khả năng vốn sẵn có ở sự vật trong những điều kiện đã có nào đó, khi có những điều kiện mới bổ sung thì ở sự vật xuất hiện thêm những khả năng mới.
- Để khả năng biến thành hiện thực thường không phải chỉ cần một điều kiện mà là tập hợp những điều kiện.
3. Một số kết luận về phương pháp luận
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không dựa vào khả năng đồng thời phải chú ý đến khả năng. Trong hoạt động thực tiễn cần tính đến mọi khả năng có thể có, tốt cũng như xấu, trên cơ sở đó dự kiến các phương án hành động thích ứng cho từng trường hợp có thể xảy ra.
- Chỉ có thể tìm ra các khả năng phát triển của sự vật ở ngay trong chính bản thân nó chứ không thể ở nơi khác. Cần chú ý đến những khả năng tất nhiên, đặc biệt là những khả năng dễ biến thành hiện thực hơn cả. Nếu chú ý đến những khả năng đó thì dễ đẩy nhanh hoạt động thực tiễn đi đến kết quả.
- Cần tạo cho khả năng các điều kiện cần và đủ để khả năng đó biến thành hiện thực. Vì một khả năng chỉ có thể biến thành hiện thực khi có đủ điều kiện cần thiết.
- Tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện cần thiết đề nhân tố chủ quan có thể tham gia tích cực vào quá trình biến đổi hay ngăn cản sự biến đội khả năng thành hiện thực. Không tách rời giữa hiện thực và khả năng cũng như không quá nhấn mạnh đến mối quan hệ khăng khít giữa khả năng và hiện thực.


CHƯƠNG VIII
NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT
1. Khái niệm “quy luật”
Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn.
2. Phân loại quy luật.
- Căn cứ vào trình độ phổ biến, các quy luật được chia thành những quy luật riêng, quy luật chung và những quy luật phổ biến.
+ Các quy luật riêng: Là những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của các sự vật, hiện tượng cùng loại.
+ Các quy luật chung: Là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy luật riêng, tác động trong nhiều loại sự vật, hiện tượng khác nhau.
+ Các quy luật phổ biến: Là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực: từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy. Đây chính là những quy luật của phép biện chứng duy vật.
- Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các quy luật được chia thành ba nhóm lớn: quy luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật của tư duy.
+ Quy luật tự nhiên: Là những quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể cả cơ thể con người, không phải thông qua hoạt động có ý thức của con người.
+ Quy luật xã hội: Là những quy luật hoạt động của chính con người trong các quan hệ xã hội. Những quy luật đó không thể nảy sinh và tác động ngoài hoạt động có ý thức của con người. Quy luật xã hội vẫn mang tính khách quan.
+ Quy luật tư duy: Là những quy luật nói lên mối liên hệ nội tại của những khái niệm, phạm trù, những phán đoán. Nhờ đó, trong tư tưởng của con người hình thành tri thức nào đó về sự vật.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
II. QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
1. Khái niệm về chất và khái niệm về lượng
a) Khái niệm về chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật... Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính, mỗi một thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau.
- Quan hệ giữa chất và thuộc tính của sự vật:
+ Chất của sự vật được hiểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.
+ Những thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác. Vì vậy, sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và không cơ bản chỉ mang tính chất tương đối. Tùy theo mối quan hệ mà nó là cơ bản hay không cơ bản.
- Quan hệ giữa chất và kết cấu của sự vật:
Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là kết cấu của sự vật. Trong hiện thực các sự vật có thành phần yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác.
b. Khái niệm về lượng.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
Sự biểu thị về lượng: Lượng được biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp... Trong thực tế, lượng có khi được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể, có khi được biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát hoá, có khi biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật, có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật.
Tính tương đối giữa lượng và chất: Điều này phụ thuộc vào từng mối quan hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất, song trong mối quan hệ khác lại lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
a) Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất
- Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng.
Sự thay đổi về lượng và chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát triển của sự vật. Sự thay đổi này có quan hệ mật thiết với nhau,  lượng thay đổi dẫn đến chất thay đổi và ngược lại. Sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với sự thay đổi về lượng của nó.
Sự thay đổi về lượng có thể chưa làm thay đổi ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự vật. Ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Khi lượng của sự vật được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ mất đi, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ. Chất mới ấy tương ứng với lượng mới tích lũy được.
- Các khái niệm độ, điểm nút, bước nhảy.
+ Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
+ Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
+ Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Vậy, bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trườc đó gây nên.
b)  Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng của nó đạt tới điểm nút. Sau khi ra đời, chất mới của sự vật sẽ tác động trở lại lượng của sự vật, chất mới ấy có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
c) Các hình thức cơ bản của bước nhảy
Bước nhảy để chuyển hóa về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong phú với những hình thức rất khác nhau. Những hình thức bước nhảy được quyết định bởi bản thân sự vật, bởi những điều kiện cụ thể trong đó sự vật thực hiện bước nhảy.
- Căn cứ trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
+ Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
- Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ.
+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật.
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
- Từng bước tích lũy về lượng để thay đổi chất, chống tư tưởng chủ quan, duy ý chí đốt cháy giai đoạn.
- Tích lũy đủ về lượng thì kiên quyết thực hiện bước nhảy, chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
- Vận dụng linh hoạt quy luật, bước nhảy theo những quan hệ cụ thể để đạt đến thành công.
III. QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
1. Khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
- Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Mâu thuẫn: Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại độc lập một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
- Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
+ Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn “đấu tranh với nhau”. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
- Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập.
- Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều này có nghĩa là: Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
- Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
- Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
3. Phân loại mâu thuẫn
- Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên ngoài và bên trong chỉ có ý nghĩa tương đối, tùy theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét ở mối quan hệ này là mâu thuẫn bên ngoài,nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong.
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi về bản chất.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
 Ba cặp mâu thuẫn này tồn tại trong mọi sự vật, lĩnh vực của hiện thực.
- Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (chỉ tồn tại trong xã hội).
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời.
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng bằng phải bằng phương pháp đối kháng; giải quyết mâu thuẫn không đối kháng thì phải bằng phương pháp trong nội bộ nhân dân.
4. Ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
 - Phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật, nghĩa là phải tìm trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và những mối liên hệ, tác động giữa các mặt đối lập đó.
- Phải nắm bắt được sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mâu thuẫn và của từng mặt đối lập trong mâu thuẫn; phải xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ tác động lẫn nhau của các mâu thuẫn.
- Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn trong hoàn cảnh cụ thể về trình độ phát triển của mâu thuẫn, phương tiện và lực lựơng giải quyết mâu thuẫn. Chống thái độ chủ quan, nóng vội đồng thời phải biết thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau có phương pháp giải quyết khác nhau.
IV. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
Sự phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản: tính khách quan và tính kế thừa.
2. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
Ph.Ăngghen đã đưa ra một thí dụ để hiểu về quá trình phủ định hạt thóc:
Khẳng định (hạt đại mạch) - phủ định lần 1 (cây đại mạch) - phủ định lần 2 (hạt đại mạch).
Từ ví dụ trên cho thấy:
- Sau khi thực hiện hai lần sự phủ định, sự vật mới kết thúc một chu kỳ phát triển.
- Sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng phát triển. Song sự vật phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”.
- Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể có thể bao gồm số lượng các lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai lần phủ định, có sự vật phải trải qua ba, bốn, năm lần phủ định... mới hoàn thành một chu kỳ phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
-  Cần nhận thức rằng, quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ diễn ra theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp theo đường “xoáy ốc”, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.
- Ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt. Do đó phải hiểu những đặc điểm đó để có sự tác động phù hợp.
- Cái mới luôn ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ, do đó trong hoạt động cần kế thừa những tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.
- Trong hoạt động thực tiễn, phải biết phát hiện cái mới đích thực và ủng hộ nó. Khi mới ra đời, cái mới còn yếu và ít nên phải tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ, phát huy ưu thế của nó.


CHƯƠNG IX
 LÝ LUẬN NHẬN THỨC

I. BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
1. Bản chất của nhận thức
a) Quan niệm về nhận thức của một số trào lưu triết học trước Mác
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người. Chủ nghĩa duy tâm khách quan coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn.
Những người theo thuyết hoài nghi coi nhận thức là trạng thái hoài nghi về sự vật và biến sự nghi ngờ về tính xác thực của tri thức thành một nguyên tắc của nhận thức.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người và coi nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người. Tuy nhiên, họ coi nhận thức là sự phản ánh trực quan, đơn giản, chưa thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
 b) Quan niệm về bản chất nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xây dựng học thuyết nhận thức dựa trên những nguyên tắc sau:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý thức của con người.
- Thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người.
- Khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo.
- Xem thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở thực tiễn.
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a) Phạm trù “thực tiễn”
- Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
- Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản sau:
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội.
+ Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở, là động lực và là mục đích của nhận thức.
+  Thực tiễn là cơ sở của nhận thức: Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức. Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
+  Thực tiễn là động lực của nhận thức: Thực tiễn thôi thúc, đòi hỏi, bắt buộc và đặt ra yêu cầu cho nhận thức phải đáp ứng. Nhu cầu của thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận... Nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa học ra đời chính là để phục vụ thực tiễn.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Không có lĩnh vực tri thức nào mà không nhằm vào việc phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, chủ thể nhận thức không thể có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc về thế giới.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập đối với nhận thức. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn. Chính thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức.
Khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, V.I.Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”[4].
Ý nghĩa: Phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa.
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ CÁC CẤP ĐỘ CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
1. Biện chứng của quá trình nhận thức
a) Trực quan sinh động
 Trực quan sinh động còn được gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính. Giai đoạn này gồm ba hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng.
-  Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hóa những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố của ý thức.
- Tri giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực tiếp tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật.
- Biểu tượng là hình ảnh cảm tính và tương đối hoàn chỉnh còn lưu lại trong bộ óc người về sự vật đó không còn trực tiếp tác động vào các giác quan. Tuy là hình ảnh cảm tính nhưng biểu tượng đã chứa đựng những yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ sự phối hợp, bổ sung lẫn cho nhau của các giác quan nhưng đã có sự tham gia của các yếu tố phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính chất trừu tượng hóa.
Nhận thức cảm tính chưa có thể nắm được quy luật vận động và phát triển của sự vật. Để nắm được quy luật này nhận thức sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất. Đó là trình độ nhận thức lý tính hay còn gọi là giai đoạn tư duy trừu tượng.
b) Tư duy trừu tượng
Tư duy trừu tượng là đặc trưng của giai đoạn nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng. Nhận thức lý tính hay tư duy trừu tượng được thể hiện ở các hình thức: Khái niệm, phán đoán và suy lý.
- Khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Nó chẳng những rất linh động, mềm dẻo, năng động mà còn là “điểm nút” của quá trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán.
- Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.
- Suy lý là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri thức mới. Chẳng hạn, để có tri thức mới, khái quát về một lớp đối tượng nào đó trong phán đoán phổ biến, phải có sự liên kết giữa phán đoán đơn nhất với phán đoán đặc thù.
c) Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen nhau trong một quá trình nhận thức, song chúng có những nhiệm vụ và chức năng khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật; giúp cho nhận thức cảm tính có định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
2. Các cấp độ của quá trình nhận thức
Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu về các cấp độ của quá trình nhận thức. Dựa trên trình độ xâm nhập vào bản chất của đối tượng nhận thức có thể phân chia thành nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận; nếu căn cứ trên tính chất tự phát hay tự giác của quá trình nhận thức, có thể chia thành nhận thức thông thường và nhận thức khoa học,…
a) Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận
- Nhận thức kinh nghiệm là loại nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại là tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học.
+ Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ sự quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và lao động sản xuất.
+ Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát các thí nghiệm khoa học.
- Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có chức năng gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức lý luận -kết quả của nhận thức lý luận - thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn.
- Mối quan hệ giữa nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận: Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể. Song, nhận thức kinh nghiệm chỉ dừng lại ở sự miêu tả, phân loại các sự kiện, các dữ kiện thu được từ sự quan sát và thí nghiệm trực tiếp. Do đó, nó chỉ đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất, những mối quan hệ có tính quy luật của các sự vật hiện tượng. Ngược lại, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát, phổ biến.
b) Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học
- Nhận thức thông thường (nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày.
- Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgic là các khái niệm, các quy luật khoa học. Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát, vừa có tính hệ thống, có căn cứ và tính chân thực.
- Mối quan hệ biện chứng giữa nhận thức thông thường và nhận thức khoa học: Nhận thức thông thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bề ngoài, ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua khả năng tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại có tác động trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.
III. VẤN ĐỀ CHÂN LÝ
1. Khái niệm chân lý
Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm.
2. Các tính chất của chân lý
- Tính khách quan của chân lý là tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối với ý thức của con người và loài người. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn ở trong nhận thức mà nội dung đó thuộc về thế giới khách quan, do thế giới khách quan quy định.
- Tính tuyệt đối và tính tương đối của chân lý.
+ Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan.
+ Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri thức với hiện thực khách quan.
+ Mối quan hệ tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý: Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Một mặt, tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính tương đối. Mặt khác, trong mỗi tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Vì thế, nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tình tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và không thể biết.
- Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, cụ thể.
Như vậy, mỗi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể. Các tính chất đó của chân lý có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Thiếu một trong các tính chất đó thì những tri thức đạt được trong quá trình nhận thức không thể có giá trị đối với đời sống của con người.


CHƯƠNG X
HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI

I. XÃ HỘI - BỘ PHẬN ĐẶC THÙ CỦA TỰ NHIÊN
1. Sự tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên
Tự nhiên, theo nghĩa rộng là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng, vô tận. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và con người đã xuất hiện từ động vật.
Xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân, “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”[5].
- Hệ thống tự nhiên - xã hội là một chỉnh thể trong đó những yếu tố tự nhiên và những yếu tố xã hội tác động qua lại lẫn nhau, quy định sự tồn tại và phát triển của nhau.
+ Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội.
+ Xã hội gắn bó với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao động là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên.
+ Trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, yếu tố xã hội ngày càng giữ vai trò quan trọng. Nếu con người tác động vào giới tự nhiên theo đúng quy luật thì sẽ làm xã hội phát triển. Nếu con người bất chấp quy luật, phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên thì con người phải gánh chịu hậu quả của nó.
2. Đặc điểm của quy luật xã hội
- Với tư cách là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, xã hội vừa phải tuân theo những quy luật của tự nhiên, vừa phải tuân theo những quy luật chỉ có trong xã hội. Cũng như các quy luật tự nhiên, các quy luật xã hội mang tính khách quan, tính tất yếu và phổ biến của quy luật nói chung.
+ Tính khách quan: Tuy quy luật xã hội được biểu hiện thông qua hoạt động của con người nhưng nó không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của bất kỳ một cá nhân, hay một lực lượng xã hội nào.
+ Tính tất yếu và phổ biến: Những mối quan hệ của con người trong xã hội được hình thành một cách tất yếu và phổ biến, nhằm thỏa mãn nhu cầu sống của con người, nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, tùy thuộc vào phạm vi và cấp độ của các mối quan hệ xã hội mà các quy luật thể hiện chúng cũng có mức độ tất yếu và phổ biến khác nhau.
- Ngoài những đặc trưng của quy luật nói chung, quy luật xã hội còn có những đặc điểm riêng.
+ Quy luật xã hội tồn tại và tác động trong những điều kiện nhất định. Khi những điều kiện tồn tại tất yếu của quy luật xã hội bị xóa bỏ, thì quy luật cũng không còn tồn tại.
+ Sự tác động của quy luật xã hội diễn ra thông qua hoạt động của con người. Động lực cơ bản thúc đẩy con người hoạt động trong mọi thời đại, mọi xã hội là lợi ích của chủ thể hoạt động.
+ Để nhận thức được quy luật xã hội cần phải có phương pháp khái quát hoá và trừu tượng hoá rất cao.
3. Sản xuất vật chất - cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội
- Sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: Sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này gắn chặt với nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
- Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Tất cả các quan hệ xã hội về nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo,... đều hình thành, biến đổi trên cơ sở sản xuất vật chất.
- Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không ngừng làm biến đổi tự nhiên, biến đổi xã hội, đồng thời làm biến đổi bản thân mình. Sản xuất vật chất không ngừng phát triển. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp đến cao. Chính vì vậy, phải tìm cơ sở sâu xa của các hiện tượng xã hội ở trong nền sản xuất vật chất của xã hội.
II. BIỆN CHỨNG CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
a) Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự thay thế nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có “quan hệ song trùng”: một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là lực lượng sản xuất; mặt khác là quan hệ giữa với người, tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
b) Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Vậy, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
- Chính người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất, chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người không ngừng tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao.
- Công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là yếu tố động nhất của của lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
- Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đối to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”.
c) Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Trong đó, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
+ Trong lịch sử phát triển của loài người có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Do đó, quan hệ giữa người với người trong mỗi cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.
+ Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hay kìm hãm quá trình sản xuất nếu nó thích ứng hay không thích ứng với quan hệ sở hữu.
+ Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
a) Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
- Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
- Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
- Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
+ Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời.
b)Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
 Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,… do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không phải giản đơn mà thông qua hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
Tóm lại, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử là là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật này là quy luật cơ bản nhất.
III. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó.
b) Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, ... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng có quan hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng.
Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp.  Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng.
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo,... đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
- Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.
- Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng, có những yếu tố thay đổi chậm, hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
b) Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động đối với cơ sở hạ tầng.
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế.
- Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng. Trong khi đó, chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, xã hội.
- Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
IV. PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ
1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
+ Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế xã hội. Suy đến cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội.
+ Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản đã nêu trên, các hình thái kinh tế - xã hội còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với quan hệ sản xuất, biến đổi cùng với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
- Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế- xã hội nhất định. Sự vận động và phát triển của xã hội đều thông qua những quy luật khách quan vốn có của nó. C.Mác khẳng định rằng: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”[6].
- Hình thái kinh tế – xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt cơ bản: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tác động qua lại tạo thành các quy luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và quy luật xã hội khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động và phát triển từ thấp đến cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử - tự nhiên.
- Quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng năng lực thực tiễn của con người, song không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan mà năng lực thực tiễn của con người cũng bị quy định bởi những điều kiện khách quan nhất định. Mặt khác, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất lại quy định một cách khách quan tính chất và trình độ quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo và do đó hình thái kinh tế – xã hội cũ được thay thế bằng hình thái – kinh tế xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Do đó, sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội như là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
- Nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn nhân loại thì lịch sử xã hội loài người đã phát triển qua một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Song do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, không phải quốc gia nào cũng tuần tự trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội có tính tuần tự từ thấp đến cao theo một sơ đồ chung mà có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Sự bỏ qua đó cũng là một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái - kinh tế - xã hội nhất định.
3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội
Sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Học thuyết đó chỉ ra rằng:
- Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ tư tưởng, từ ý muốn chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
- Xã hội là một cơ thể sống động, các mặt trong đó thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Điều đó cho thấy, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
- Sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự nhiên, tức diễn ra tuân theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội.
- Kể từ khi học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời cho đến nay, loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt, nhưng học thuyết đó vẫn nguyên giá trị. Nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội.
4. Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế- xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
 Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đừơng lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của Việt Nam. “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế- xã hội  có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”[7].
- Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[8].
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”[9].
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phố biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của Việt Nam là một nền đại công nghiệp. Chính vì vậy, Việt Nam phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra: Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
  Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tóm lại, sự hòa quyện giữa các mặt chủ yếu trong đời sống xã hội khi vận dụng học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện rõ trong Đại hội X, trong khi khẳng định “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm” thì Đảng ta không quên nhấn mạnh “xây dựng Đảng là then chốt”, “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”.










CHƯƠNG XI
GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC

I. NHỮNG HÌNH THỨC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ
1. Những hình thức cộng đồng người trước dân tộc
a) Thị tộc
Thị tộc hình thức cộng đồng người có cùng một huyết thống đầu tiên trong lịch sử. Thị tộc là một đơn vị sản xuất và là một hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thủy.
Cơ sở tồn tại về kinh tế của thị tộc là quyền sở hữu chung về tư liệu sản xuất và tài sản.
b) Bộ lạc
Bộ lạc là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc do có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc.
Đặc trưng của bộ lạc là có cùng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hoá, tín ngưỡng và cùng chung sống trên một vùng lãnh thổ. Mặc dù chưa thật sự ổn định nhưng việc xác lập chủ quyền về mặt lãnh thổ là đặc trưng mới của bộ lạc so với thị tộc. Bộ lạc có hình thức sở hữu cao hơn thị tộc. Ngoài sở hữu riêng của thị tộc, bộ lạc còn có những sở hữu khác bao gồm vùng lãnh thổ, nơi trồng trọt, săn bắt và chăn nuôi...
c) Bộ tộc
Bộ tộc là một cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định. Mỗi bộ tộc có tên gọi và có những đặc điểm về kinh tế, văn hoá riêng.
Khác với bộ lạc và thị tộc, bộ tộc có vùng lãnh thổ tương đối ổn định, dân cư đa dạng và đan xen, đa ngôn ngữ và văn hoá, trong đó ngôn ngữ của bộ lạc nào chiếm vị trí trung tâm của sự giao lưu và phát triển kinh tế sẽ trở thành ngôn ngữ chung của cả bộ tộc. Thời kỳ hình thành bộ tộc là thời kỳ đánh dấu sự tan rã hoàn toàn của xã hội công xã nguyên thuỷ.
2. Dân tộc
Dân tộc là một cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên kết của tất cả các bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ.
Dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có các thể chế chính trị và nhà nước. Dân tộc có những đặc điểm chung thống nhất rất chặt chẽ, đó là:
+ Cộng đồng về lãnh thổ: Lãnh thổ là sự biểu hiện cụ thể về mặt chủ quyền của một dân tộc trong quan hệ với các quốc gia dân tộc khác. Lãnh thổ là chủ quyền không thể chia cắt, là nơi sinh tồn phát triển và là nền tảng hình thành nên tổ quốc của mỗi quốc gia dân tộc.
+ Cộng đồng về kinh tế: Đây là nhân tố bảo đảm cho sự tồn tại và thống nhất của mỗi quốc gia dân tộc. Một dân tộc thống nhất, một quốc gia thống nhất phải được đảm bảo và phải dựa trên cơ sở cộng đồng chung về kinh tế.
+ Cộng đồng về ngôn ngữ: Ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất trong giao tiếp của các dân tộc. Mỗi dân tộc đều cho ngôn ngữ riêng của mình, nhưng trong một quốc gia nhiều dân tộc bao giờ cũng có một ngôn ngữ chung thống nhất. Ngôn ngữ là nền tảng văn hoá, đồng thời là di sản tinh thần của mỗi dân tộc.
+ Cộng đồng về văn hoá, về tâm lý: Văn hoá là yếu tố đặc biệt trong sự gắn kết cộng đồng dân tộc thành một khối thống nhất. Văn hoá của một dân tộc phản ánh khái quát tính đa dạng chung của các sắc tộc, các cộng đồng dân cư trên cùng một vùng lãnh thổ. Đặc trưng chung của văn hoá dân tộc là thống nhất trong tính đa dạng. Văn hoá là động lực của phát triển, là công cụ bảo vệ độc lập và chủ quyền của mỗi quốc gia.
Bên cạnh đó, mỗi dân tộc có tâm lý và lối sống riêng, có những nét tính cách riêng. Điều đó là sự phản ánh những điều kiện về kinh tế, điều kiện địa lý, dân cư và nét đặc thù văn hoá riêng của dân tộc ấy.
II. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
1. Giai cấp
a) Khái niệm giai cấp
- Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”[10].
- Sự ra đời, tồn tại của giai cấp gắn với những hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai cấp trong hệ thống sản xuất là do:
+ Thứ nhất, khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu những tư liệu sản xuất của xã họi.
+ Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ chức quản lý lao động xã hội.
+ Thứ ba, khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập những sản phẩm lao động của xã hội.
- Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau của họ về sở hữu với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng quyết định nhất. Tập đoàn người nào nắm giữ tư liệu sản xuất sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những sản phẩm lao động của các tập đoàn khác.
- Giai cấp là một phạm trù kinh tế- xã hội có tính lịch sử. Nó luôn luôn vận động biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử.
b) Nguồn gốc hình thành giai cấp
- Trong xã hội nguyên thủy, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thủy. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào nhau theo bầy đàn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện.
- Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động tăng lên đáng kể, phân công lao động xã hội từng bước hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
- Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ phục vụ những người giàu và có địa vị trong xã hội, chế độ có giai cấp chính thức hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời của giai cấp.
c) Kết cấu xã hội - giai cấp
- Mỗi kiểu xã hội đó có kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp của một xã hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau: Chủ nô và nô lệ trong chế độ nô lệ, địa chủ và nông nô trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Hai giai cấp cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội đó, là những giai cấp quyết định sự tồn tại, phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại.
- Ngoài hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội - giai cấp còn bao gồm một số giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian.
2. Đấu tranh giai cấp
a) Khái niệm đấu tranh giai cấp
- Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp. Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là: “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”[11].
- Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức và bóc lột.
b) Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp
- Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, những quan hệ sản xuất lỗi thời không tự động nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới. Chúng được giai cấp thống trị bảo vệ bằng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế, và tư tưởng, đặc biệt là bạo lực có tổ chức. Muốn thay quan hệ sản xuất cũ để giải phóng sức sản xuất thì phải gạt bỏ lực cản này. Muốn vậy, phải thông qua đấu tranh giai cấp, đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Như vậy, cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các hình thái kinh tế xã hội, vì vậy “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.
- Đấu tranh giai cấp góp phần xóa bỏ các thế lực phản động, lạc hậu, đồng thời cải tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người đạt được trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội,... không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
- Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với các cuộc đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
- Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng xã hội mới, công bằng, dân chủ và văn minh.
- Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong gian đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu. Do bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện mới của xu thế quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở Việt nam là "thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc". Đồng thời Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
III. QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Giai cấp và dân tộc quan hệ mật thiết với nhau, song đó là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, có vai trò lịch sử khác nhau và không thể thay thế cho nhau.
Sẽ không hiểu được bản chất của vấn đề dân tộc, mối quan hệ phức tạp giữa giai cấp và dân tộc nếu không nhận rõ vai trò của nhân tố kinh tế – xã hội, của nhân tố giai cấp. Quan hệ giai cấp là nhân tố xét đến cùng có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, đối với xu hướng phát triển của dân tộc, quy định tính chất mối quan hệ giữa các dân tộc.
- Bản chất xã hội của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị trong dân tộc, bởi quan hệ giai cấp do phương thức sản xuất ấy sản sinh ra.
- Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản, sâu xa của áp bức dân tộc. Hiện tượng dân tộc này thống trị, áp bức dân tộc khác trong lịch sử, về thực chất là giai cấp thống trị của dân tộc này áp bức bóc lột dân tộc khác mà bộ phận bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất là nhân dân lao động.
- Trong khi nhấn mạnh vai trò của nhân tố giai cấp, triết học Mác – Lênin không xem nhẹ nhân tố dân tộc. Vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của cách mạng vô sản song nó chỉ được nhận thức và giải quyết đúng đắn trên lập trường của giai cấp cách mạng, nhất là giai cấp công nhân.
- Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân về bản chất mang tính chất quốc tế và đoàn kết quốc tế là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng người lao động. Mác, Ăngghen và Lênin thường xuyên nhấn mạnh rằng, giai cấp công nhân các nước phải giáo dục chủ nghĩa quốc tế chân chính cho quần chúng nhân dân, nhưng không được quên rằng cuộc đấu tranh giải phóng của họ có tính chất dân tộc. Dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Vì vậy, “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”[12].
- Nếu như áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc thì áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ trở lại đối với áp bức giai cấp. Nó nuôi dưỡng áp bức giai cấp và làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Mác  nhấn mạnh rằng: một dân tộc đi áp bức dân tộc khác, dân tộc ấy không thể có tự do được. Tác động trở lại của áp bức dân tộc đối với áp bức giai cấp (ở “chính quốc”) càng thể hiện rõ trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa đế quốc phải lấy việc bóc lột các dân tộc chậm phát triển làm tiền đề tồn tại của nó.
- Mối quan hệ giữa đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc không phải chỉ có một chiều là đấu tranh giai cấp tác động vào đấu tranh dân tộc mà còn có chiều ngược lại: đấu tranh dân tộc tác động vào đấu tranh giai cấp. Nếu dân tộc chưa có độc lập thống nhất thì giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới muốn trở thành “giai cấp dân tộc” phải đi đầu trong cách mạng giải phóng dân tộc, phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục độc lập, thống nhất dân tộc.
- Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có vai trò hết sức to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân trên toàn thế giới. Muốn đưa phong trào cách mạng tiến lên, giai cấp công nhân mỗi nước và chính đảng của nó phải tự mình chứng tỏ là người đại biểu chân chính của dân tộc, phải kết hợp chặt chẽ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
2. Sự vận dụng sáng tạo quan hệ giai cấp – dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Mác – Lênin về quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Qua nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh đi đến kết luận hết sức cơ bản: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”[13].
Điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là bài học lớn nhất của cách mạng Việt Nam khi giải quyết quan hệ dân tộc – giai cấp là bài học về sự kết hợp chặt chẽ nhuần nhuyễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
- Quan điểm của giai cấp công nhân đối với vấn đề giai cấp - dân tộc còn thể hiện ở việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và quốc tế, lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, giữa mở rộng giao lưu quốc tế với giữ gìn độc lập, bản sắc dân tộc. Lợi ích dân tộc chân chính và lợi ích quốc tế của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước không đối lập nhau mà thống nhất với nhau.



CHƯƠNG XII
NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI

I. NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc và bản chất của nhà nước
a) Nguồn gốc của nhà nước
- Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp, cho nên chưa có nhà nước. Lúc đó chỉ có thị tộc, bộ lạc. Trong xã hội không cần và không có một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào.
- Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời của chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hòa xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước CHNL, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời nhà nước là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử.
b) Bản chất của nhà nước
Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm mục đích bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác”[14].
Về bản chất "Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác"[15], là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội, là công cụ chuyên chính của một giai cấp.
Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức là nhà nước của giai cấp bóc lột.
- Với bản chất đó, nhà nước không thể là lực lượng điều hoà sự xung đột giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Cũng theo bản chất đó, nhà nước là một bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội do nhà nước tiến hành, xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
2. Đặc trưng cơ bản của nhà nước
Các nhà nước được tổ chức một cách khác nhau. Song, bất kỳ nhà nước nào cũng có ba đặc trưng cơ bản sau:
a) Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo lãnh thổ mà họ cư trú. Quyền lực nhà nước có hiệu lực với mọi thành viên trong lãnh thổ không phân biệt huyết thống. Đặc trưng này làm xuất hiện mối quan hệ giữa từng người trong cộng đồng với nhà nước. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên giới quốc gia nhất định.
b) Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội
Khác với các cơ quan điều hành công việc chung trong thị tộc, bộ lạc, nhà nước của giai cấp thống trị nào cũng có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình được thực thi trong thực tế.
c) Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuối sống bộ máy cai trị. Hệ thống thuế khoá, cống nạp như vậy hoàn toàn không có trong hình thức tổ chức xã hội thị tộc, bộ lạc. Nó chỉ tồn tại gắn liền với hình thức tổ chức nhà nước. Bằng các hình thức khác nhau như vậy, nhà nước của giai cấp bóc lột không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự bóc lột các giai cấp bị áp bức.
3. Chức năng cơ bản của nhà nước
a) Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
- Chức năng thống trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn thể xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó.
- Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
- Trong hai chức năng đó thì chức năng thống trị chính trị là cơ bản nhất, chức năng xã hội phải phụ thuộc và phục vụ cho chức năng thống trị chính trị.
b) Chức năng đối ngoại và chức năng đối nội
- Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích của giai cấp thống trị. Thông thường điều đó phải được pháp luật hoá và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
- Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế,việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
- Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất chức năng đối ngoại của nhà nước; ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mãnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
4. Các kiểu và hình thức nhà nước
a) Khái niệm kiểu và hình thức nhà nước
- Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội nào.
- Mỗi kiểu nhà nước lại có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước. Nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.
b) Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử
- Nhà nước chiếm hữu nô lệ: Đây là nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại mà tiêu biểu là các hình thức lịch sử nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ. Các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, còn bản chất của chúng đều là  nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối với nô lệ.
- Nhà nước phong kiến: Đây là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như: quân chủ phân quyền, quân chủ tập quyền. Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc, là cơ quan bảo vệ những đặc quyền phong kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô.
- Nhà nước tư sản: Đây là nhà nước của giai cấp tư sản thích ứng với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư sản cũng được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng nói chung chỉ có hai hình thức cơ bản là cộng hoà  và quân chủ lập hiến. Hình thức của nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay đổi bản chất của nó - đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị giai cấp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản.
- Nhà nước vô sản: Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử.
+ Tính chất đặc biệt của nó trước hết là ở chỗ nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người.
+ Sự tồn tại của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ là tất yếu vì trong thời kỳ quá độ xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột và các lực lượng xã hội, chúng chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Hơn nữa, trong thời kỳ quá độ còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác nên giai cấp vô sản phải tìm mọi cách thu hút lực lượng đông đảo về phía mình. Ở đây chuyên chính vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân.
+ Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản còn thể hiện ở chỗ chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nó không phải là chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nó không phải là chức năng bạo lực mà là chức năng tổ chức xây dựng kinh tế – xã hội.
+ Tính chất đặc biệt của nhà nước còn thể hiện ở cơ sở quyền lực của nhà nước – đó là nền tảng liên minh công – nông làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp những người lao động khác trong xã hội.
+ Giai cấp công nhân không chỉ có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc mình, mà còn có vai trò lịch sử toàn thế giới. Do vậy, chuyên chính vô sản còn phải làm nghĩa vụ quốc tế của mình cho cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Nhà nước vô sản là tổ chức, thông qua đó, Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình. Do vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản.
+ Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Công xã Pari năm 1871 đã sản sinh ra nhà nước vô sản kiểu Công xã. Hình thức thứ hai của chuyên chính vô sản là Xôviết. Ở một số nước, nhà nước vô sản còn tồn tại dưới hình thức nhà nước dân chủ nhân dân…
Tóm lại, cũng vì những tính chất đặc biệt như vậy của nhà nước vô sản mà những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định rằng, nhà nước vô sản là một nhà nước đặc biệt trong lịch sử, đó là “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là nhà nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế, xã hội của sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn. Sự mất đi của nhà nước vô sản không bằng con đường “thủ tiêu”, “xóa bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu vong”. Sự tiêu vong của nhà nước là một quá trình lâu dài.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước vô sản nhiều hình thức mới. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kỳ quá độ có thể rất khác nhau, nhưng bản chất của chúng chỉ là một: chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
II. CÁCH MẠNG XÃ HỘI
1. Bản chất và vai trò của cách mạng xã hội
a) Khái niệm cách mạng xã hội
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế đổ chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.
Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, giành chính quyền vẫn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
b) Nguyên nhân của cách mạng xã hội
- Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũ trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của các lực lượng sản xuất. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.
- Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất mới với giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là sử dụng công cụ nhà nước có trong tay để bảo vệ, duy trì quan hệ sản xuất lỗi thời. Để thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn và làm cho nó trở thành quan hệ sản xuất thống trị nhằm giải phóng mình, giai cấp cách mạng phải tiến hành đấu tranh chống lại giai cấp thống trị, phải giành lấy chính quyền nhà nước. Do vậy, cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp và là bước nhảy vọt tất yếu trong sự phát triển của xã hội.
c) Vai trò của cách mạng xã hội
- Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ, thúc đẩy lực lựơng sản xuất phát triển. Nghĩa là, chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
- Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế- chính trị - văn hoá - tư tưởng. Trong các thời kỳ cách mạng xã hội, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy một cách cao độ, như  Mác đã nói: Cách mạng xã hội là đầu tàu của lịch sử.
- Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của cách mạng xã hội qua bốn cuộc cách mạng xã hội đưa nhân loại trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau.
- Cách mạng vô sản là kiểu cách mạng xã hội mới về chất. Nếu tất cả các cuộc cách mạng xã hội trước chỉ là sự thay thế hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân, thay thế hình thức người bóc lột người, thì cách mạng vô sản nhằm xây dựng xã hội mới không có giai cấp để giải phóng triệt để con người. Đó là sự chuyển biến sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại.
d) Tính chất, lực lượng và động lực của cách mạng xã hội
- Tính chất của một cuộc cách mạng xã hội được xác định bởi nhiệm vụ giải quyết mâu thuẫn kinh tế (LLSX và QHSX) và mâu thuẫn xã hội (GCTT và GCBT) tương ứng. Nó phải giải quyết những mâu thuẫn giai cấp nào, xoá bỏ chế độ xã hội nào, xác lập chế độ xã hội nào.
- Tính chất và nhiệm vụ của một cuộc cách mạng xã hội quy định lực lượng và động lực của cách mạng.
+ Lực lượng của cách mạng xã hội là những giai cấp và tầng lớp nhân dân có lợi ích ít nhiều gắn bó với cách mạng và thúc đẩy cách mạng xã hội phát triển. Tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong nước và trên thế giới khác nhau, nên có những lực lượng của cách mạng xã hội khác nhau.
+ Động lực của cách mạng xã hội là những giai cấp có lịch ích gắn bó chặt chẽ và lâu dài đối với cách mạng. Tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, động lực của cách mạng xã hội cũng thay đổi.
- Vai trò lãnh đạo trong cách mạng xã hội thuộc về giai cấp đứng ở vị trí trung tâm của thời đại, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là giai cấp tiến bộ nhất trong số các giai cấp đang tồn tại. Ví dụ, giai cấp tư sản là giai cấp lãnh đạo trong cách mạng tư sản.
2. Quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội.
- Điều kiện khách quan: Cách mạng xã hội chỉ có thể nổ ra, việc giành chính quyền chỉ trở thành nhiệm vụ trực tiếp, khi đã có những điều kiện khách quan cần thiết đã chín muồi tạo thành tình thế cách mạng.
 Tình thế cách mạng là sự chín muồi của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, của mâu thuẫn giai cấp trong xã hội dẫn tới những đảo lộn trong nền tảng kinh tế - xã hội, tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc khiến cho việc thay thế thể chế chính trị đó bằng thể chế chính trị khác tiến bộ hơn như là một thực tế không thể đảo ngược.
- Nhân tố chủ quan: Sự chín muồi của nhân tố chủ quan trong cách mạng xã hội thể hiện ở trình độ cao của tổ chức, ở mức độ quyết tâm đến đỉnh điểm của giai cấp cách mạng sẵn sàng tiến hành hoạt động cách mạng mạnh mẽ nhất,kiên quyết nhất để lật đổ chính quyền đương thời, xác lập chính quyền cách mạng do giai cấp đó làm chủ thể. Nhân tố chủ quan gắn liền với mỗi kiểu cách mạng xã hội và mức độ phát triển của nó trong mỗi kiểu cách mạng cũng rất khác nhau.
- Mối quan hệ giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan:
+ Nếu chưa có những điều kiện khách quan cho một cuộc cách mạng xã hội thì không có một nỗ lực nào của người cách mạng có thể đưa cách mạng đến thắng lợi. Nhưng một khi điều kiện khách quan cho cuộc cách mạng đã chín muồi thì vận mệnh của cuộc cách mạng lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào nhân tố chủ quan và lúc đó nhân tố chủ quan là nhân tố chủ đạo.
+ Cách mạng xã hội không thể nổ ra và thắng lợi khi điều kiện khách quan không cho phép. Nhưng giai cấp cách mạng không thụ động ngồi chờ mà phải chuẩn bị lực lượng và phải tác động làm cho điều kiện khách quan chín muồi. Và, khi điều kiện khách quan đã chín muồi, tình thế cách mạng xuất hiện thì giai cấp cách mạng phải nắm lấy thời cơ, phát động quần chúng đứng lên làm cách mạng giành lấy chính quyền.
3. Hình thức và phương pháp cách mạng
Cách mạng xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dù dưới hình thức nào, cách mạng cũng không thể đạt tới thành công nếu không sử dụng bạo lực cách mạng làm điều kiện.
- Bạo lực cách mạng là hành động cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng vượt qua khỏi giới hạn pháp luật của giai cấp thống trị đương thời nhằm lật đổ nhà lỗi thời, xác lập nhà nước của giai cấp cách mạng. Bạo lực cách mạng là tất yếu, bởi vì giai cấp thống trị lỗi thời không bao giờ tự nguyện từ bỏ địa vị thống trị của mình.
- Trong khi khẳng định cách mạng bạo lực, những người mácxit không phủ nhận khả năng đưa cách mạng xã hội tiến lên bằng phương pháp hoà bình, kể cả việc sử dụng “con đường nghị trường” song nó chỉ có thể được bảo đảm khi có sức mạnh của phong trào quần chúng - bạo lực cách mạng - làm hậu thuẫn.

CHƯƠNG XIII
Ý THỨC XÃ HỘI

I. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a) Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số... trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.
b) Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Phân biệt giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân:
+ Ý thức của cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó không thể không mang tính xã hội. Song, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, một tập đoàn xã hội, một thời đại xã hội nhất định.
+ Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.
- Kết cấu của ý thức xã hội:
Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có thể tiếp cận kết cấu của ý thức xã hội từ nhiều phương diện khác nhau:
- Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học,…
- Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
c) Tính giai cấp của ý thức xã hội
- Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định, do đó, ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
- Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội. Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đoàn xã hội khác. Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm tư tưởng hoặc hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
2. Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a) Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
- Đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy.
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật,... sớm muộn sẽ biến đổi theo.
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
b) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội.
- Ý thức xã hội có thể vượt trước sự tồn tại của xã hội.
- Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
- Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Tóm lại, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã cho thấy sự phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần xã hội nói chung. Sự độc lập tương đối ấy đã bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hóa, xây dựng con người mới.
II. CÁC HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI
1. Ý thức chính trị
- Hình thái ý thức chính trị chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Đặc trưng của ý thức chính trị là thể hiện trực tiếp và tập trung nhất lợi ích giai cấp.
Ý thức chính trị biểu hiện ở ý thức chính trị thực tiễn thể hiện qua trạng thái tâm lý xã hội, những cảm xúc và tâm trạng về chính trị của quần chúng và hệ tư tưởng chính trị thể hiện trong đường lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp, chính sách nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị.
- Ý thức chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và "có thể, trong những giới hạn nhất định thay đổi cơ sở kinh tế". Hệ tư tưởng chính trị cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Nó thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác. Tác động tích cực hay tiêu cực của hệ tư tưởng chính trị phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó.
2. Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội.
- Ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước và phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ.
- Ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp và nhà nước, ý thức pháp quyền luôn luôn mang tính giai cấp. Giai cấp nắm chính quyền không những củng cố địa vị thống trị về kinh tế của mình bằng các luật lệ, mà con dựa trên hệ tư tưởng pháp quyền để lập luận về sự cần thiết và tính hợp lý của pháp luật của mình.
3. Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
- Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng... phản ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự phát triển của ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện của tiến bộ xã hội.
- Trong ý thức đạo đức, yếu tố tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, nếu thiếu nó thì những khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức đạo đức thu nhận được bằng con người lý tính không thể chuyển hoá thành hành vi đạo đức.
- Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp, nó có tính giai cấp. Trong các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ, còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái.
4. Ý thức khoa học
 - Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái ý thức xã hội không thể tách rời xem xét nó như một hiện tượng xã hội.
- Ý thức khoa học - với tính cách là một hình thái ý thức xã hội - là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng logíc trừu tượng về thế giới đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy. Đó là một trong những sự khác biệt giữa ý thức khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác.
- Hình thức biểu hiện chủ yếu của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật. Nhờ tri thức khoa học, con người không ngừng vươn tới cái mới “sáng tạo ra một thế giới mới” và ngày càng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.
5. Ý thức thẩm mỹ
Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp. Trong các hình thức hoạt động thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ.
- Nghệ thuật ra đời từ rất sớm khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp và bắt nguồn từ tồn tại xã hội, nó phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể bằng hình tượng nghệ thuật, thường thì thông qua cái cá biệt mang tính điển hình. Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật bao giờ cũng mang tính giai cấp thể hiện ở chỗ chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị của một giai cấp. Bên cạnh nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin còn khẳng định tính nhân loại chung. Có nhiều tác phẩm nghệ thuật mà giá trị của nó trở thành giá trị chung của nhân loại và trường tồn qua không gian và thời gian.
6. Ý thức tôn giáo
Ý thức tôn giáo với tính cách là hình thái ý thức xã hội bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo.
- Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những biểu tượng, tình cảm, tâm trạng thói quen của quần chúng về tín ngường tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là hệ thống giáo lý do các giáo sĩ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Đứng về mặt lịch sử, tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo là hai giai đoạn phát triển của ý thức tôn giáo, nhưng chúng liên hệ tác động  qua lại và bổ sung nhau.
- Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội thực hiện chức năng  chủ yếu của mình là chức năng đền bù - hư ảo trong một xã hội cần đến sự đền bù - hư ảo. Chức năng đó đã làm cho tôn giáo có một đời sống lâu dài, một vị trí đặc biệt trong xã hội. Chính vì chức năng này mà tôn giáo luôn được các giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức tinh thần, một phương tiện củng cố địa vị thống trị của họ.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng điều kiện tiên quyết để khắc phục tôn giáo như một hình thái ý thức có tính chất tiêu cực là phải xoá bỏ nguồn gốc xã hội của nó, nghĩa là phải tiến hành một cuộc cách mạng xã hội triệt để nhằm cải tạo cả tồn tại xã hội lẫn ý thức xã hội.


CHƯƠNG XIV
QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI

I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ VÀ NHỮNG QUAN NIỆM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử
a) Quan niệm về con người trong triết học phương Đông
- Trung Quốc:
+ Khổng Tử cho bản chất con người do “thiên mệnh” chi phối quyết định, đức “nhân” chính là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân tử. Mạnh Tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy, phải thông qua tu dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình. Ngược lại, Tuân Tử cho rằng, bản chất con người khi sinh ra là ác, nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được.
+ Đạo giáo cho rằng con người sinh ra từ “Đạo”. Do vậy, con người cần phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không hành động một cách giả tạo, gò ép, trái với tự nhiên. Quan niệm này biểu hiện tư tưởng duy tâm chủ quan của triết học Đạo gia.
- Ấn Độ:
Phật giáo xem con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần). Đời sống con người trên trần thế chỉ là ảo giác hư vô. Vì vậy, cuộc đời con người khi còn sống là chỉ sống gửi, là tạm bợ. Cuộc sống vĩnh cửu là phải hướng tới cõi Niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
Nhìn chung, con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
b) Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
- Các nhà triết học theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan. Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên đều được cấu tạo nên từ vật chất. Quan niệm đó được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại.
- Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm lại chú trọng giác độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu là quan điểm của Platon thời Cổ đại Hy Lạp, Đềcáttơ trong triết học Pháp thời Cận đại và Hêghen trong nền triết học Cổ điển Đức. Do không đứng trên lập trường duy vật nên các nhà triết học đã lý giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên.
- Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo, nhận thức vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Trong Kitô giáo, con người là kẻ có thể xác. Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh cửu. Linh hồn là giá trị cao nhất trong con người. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc phần linh hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh cửu.
- Triết học Tây Âu trung cổ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ con người thấp hơn lý trí anh minh sáng suốt của Thượng đế. Cuộc sống trên trần thế là tạm bợ, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
- Trong nền triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học vẫn coi những vấn đề triết học về con người là vấn đề trung tâm của những suy tư triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơrớt.
Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít còn phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
2. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác –Lênin về con người.
a) Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
- Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, giới tự  nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên.
- Là động vật cao cấp nhất, con người là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi quy định bản tính sinh học trong đời sống con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong những cá nhân con người sống, là tổ chức cơ thể của con người và mối quan hệ của nó đối với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con người.
- Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là mặt xã hội. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên.
- Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
- Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật này cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
- Với phương pháp luận duy vật biện chứng cho thấy rằng, quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật.
b) Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
- Con người là sản phẩm của lịch sử:
 Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
- Con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử – xã hội:
+ Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
+ Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình, là chủ thể sáng tạo lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
c) Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Với những quan niệm nêu trên cho thấy, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”[16].
- Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, mọi thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ta những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội…) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
- Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là cái duy nhất; do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
- Kết luận:
+ Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
+ Để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
II. QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VỚI XÃ HỘI.
1. Khái niệm cá nhân và nhân cách
- Cá nhân:
Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.
Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có quan hệ xã hội riêng, có nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích riêng, nhưng điều đó không loại trừ tính chung trong mỗi cá nhân là thành viên của xã hội và mang bản chất xã hội.
- Nhân cách:
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân là phương thức biểu hiện của giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt. Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng riêng có của cá nhân, đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
Nhân cách không phải là cái bẩm sinh, sẵn có mà được hình thành và phát triển phụ thuộc và ba yếu tố:
+ Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học, một cá thể sống phát triển cao nhất của giới hữu sinh.
+ Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của nhân cách thông qua sự tác động biện chứng của gia đình, nhà trường và xã hội đối với mỗi cá nhân.
+ Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm toàn bộ các yếu tố như quan điểm, lý luận, niềm tin, định hướng giá trị… Dựa trên nền tảng của thế giới quan cá nhân để hình thành các thuộc tính bên trong về năng lực, về phẩm chất xã hội như năng lực trí tuệ, chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ.
2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
- Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của một xã hội là cộng đồng tập thể gia đình, cơ quan, đơn vị… và lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc gia, dân tộc… và rộng lớn nhất là cộng đồng nhân loại.
- Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và các cộng đồng xã hội nói chung chính là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội. Đó cũng là mối quan hệ vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn.
- Mỗi cá nhân với tư cách là một con người, không bao giờ có thể tách rời khỏi những cộng đồng xã hội nhất định, đồng thời mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là hiện tượng có tính lịch sử. Quan hệ cá nhân – xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế – xã hội này bằng hình thái kinh tế – xã hội này bằng hình thái kinh tế- xã hội khác.
- Trong mối quan hệ với cá nhân, xã hội giữ vai trò quyết định. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần.
- Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động xã hội. Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con người.
- Ý nghĩa:
Để giải quyết đúng đắn quan hệ cá nhân – xã hội, cần phải tránh hai thái độ cực đoan:
+ Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội, nhu cầu cá nhân chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Khuynh hướng này có thể dẫn đến chủ nghĩa cá nhân.
+ Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, không quan tâm đến vấn đề cá nhân, sẽ dẫn đến một xã hội nghèo nàn, chậm phát triển, không phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
III. VAI TRÒ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CÁ NHÂN TRONG LỊCH SỬ
1. Khái niệm quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử
a) Khái niệm quần chúng nhân dân
- Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
- Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các nội dung sau đây :
+ Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
+ Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
+ Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do đó, quần chúng nhân dân là một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
b) Khái niệm cá nhân trong lịch sử
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, những cá nhân kiệt xuất có vai trò đặc biệt quan trọng trong các tiến trình lịch sử. Đó là những vĩ nhân, lãnh tụ. Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật… Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên.
- Để trở thành lãnh tụ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây :
+ Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại.
+ Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.
+ Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại.
2. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng. Tính biện chứng của mối quan hệ trên biểu hiện:
- Tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ:
+ Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân ưu tú, những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
+ Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định.
- Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ:
Tuy cùng đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển trong lịch sử.
a) Vai trò của quần chúng nhân dân
 - Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã hội. Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung:
+ Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
+ Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
+ Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
b) Vai trò của lãnh tụ
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Thứ nhất, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
- Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng.
- Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.
Vai trò của lãnh tụ rất to lớn, nhưng không phải tuyệt đối hóa vai trò của lãnh tụ mà phải kiên quyết chống lại tệ sùng bái cá nhân.
Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo, sẽ dẫn đến tuyệt đối hoá cá nhân kiệt xuất, vai trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai trò của tập thể lãnh đạo và của quần chúng nhân dân. Căn bệnh trên dẫn đến hạn chế hoặc tước bỏ quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân thiếu tin tưởng vào chính bản thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực, mù quáng, không phát huy được tính năng động sáng tạo chủ quan của mình.


[1] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.18, tr 151.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr 519.
* Theo từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tr 711: “Ý thức là toàn bộ các quá trình tâm lý tích cực tham gia vào sự hiểu biết của con người đối với thế giới khách quan và sự tồn tại thực sự của nó”.

[3] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr  455.
[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.18, tr.167.
[5] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr. 646.
[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, t.23, tr.21.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84 – 85.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb  Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb  Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.87.
[10] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.39,tr.17-18.
[11] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.7,tr.237- 238.
[12] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, t.4, tr.623-624.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.9, tr.314.
[14]  Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tr 395.
[15] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, t.22, tr.290-291.
[16] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, t.3, tr.11.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét