Thứ Tư, 8 tháng 9, 2010

VẤN ĐỀ CHÂN LÝ TRONG CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TRÌNH BÀY VẤN ĐỀ CHÂN LÝ TRONG CNHHĐ

1. Thế nào là thời kỳ hậu hiện đại?

Sau chiến tranh thế giới thứ hai cho đến thập niên 70 của thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản được sự hỗ trợ mạnh mẽ của những thành tựu khoa học – công nghệ đã phát triển một cách mạnh mẽ, dòng chu chuyển của tư bản đã biến các khu vực tách rời nhau của thế giới thành một thị trường thống nhất, trong đó chỉ còn lại những yếu tố chủ yếu là sản xuất, tiêu dùng, hưởng thụ.

Những biến đổi căn bản trên nhiều lĩnh vực của xã hội Tây Âu ở thời kỳ này đã tạo ra bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển của nó, chuyển từ thời kỳ hiện đại sang thời kỳ hậu hiện đại. Chủ nghĩa tư bản với những hạn chế của nó như lạnh lùng, tham lam, áp đặt… đã làm xuất hiện tinh thần hoài nghi, phản kháng, xuất hiện những cảm nghiệm mới về cá nhân, không gian và thời gian. Tinh thần hậu hiện đại biểu hiện trên nhiều phương diện của đời sống xã hội như lối sống, văn hóa, chính trị, thẩm mỹ, giáo dục, trên các lĩnh vực văn học nghệ thuật như thi ca, tiểu thuyết, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, điện ảnh, giải trí, trên các khoa học xã hội và nhân văn, và trên lĩnh vực triết học.

Theo Daniel Bell, thời kỳ hậu hiện đại là sản phẩm của việc áp dụng những cuộc phản kháng lại thời kỳ hiện đại vào cuộc sống đời thường, là sự mở rộng của lối sống phản loạn, siêu cá nhân và hưởng thụ. Sự nở rộ của văn hoá hậu hiện đại là cuộc tấn công toàn diện vào truyền thống với những mâu thuẫn sâu sắc giữa chứng tự si mê hung hăng với các mệnh lệnh quan liêu, kỹ trị của cấu trúc kinh tế tư bản và chính thể dân chủ.

Thời kỳ hậu hiện đại phủ định việc sử dụng lý trí công cụ trong các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, kinh tế, chính trị… vì điều đó sẽ dẫn tới sự chia cắt hoàn toàn thế giới văn hoá và thế giới kỹ thuật. Dựa vào các thành tựu mới trong điều khiển học, nó bác bỏ nỗ lực xây dựng hình ảnh về thế giới của thời kỳ hiện đại, theo đó con người được đặt trong tư thế quan sát, tái hiện hình ảnh thế giới. Nó chủ trương thiết lập nên mạng lưới giao tiếp ngôn ngữ giữa con người với thế giới và xoá bỏ đi ý tưởng về chủ thể tính. Cảm thức không gian và thời gian bị chia cắt ở thời hiện đại nay được nối kết lại thành một. Những sự kiện xảy ra hôm nay không còn bị neo chặt tại một địa điểm nhất định và được xác định qua nhịp điệu của tự nhiên nữa. Thời gian bây giờ gắn liền với tốc độ, việc nhận thức thời gian cảm tính được thể hiện qua những hình ảnh không gian hoàn toàn khác với thời hiện đại.

2. Một số triết gia đặt nền móng cho nhận thức luận của chủ nghĩa hậu hiện đại

Các triết gia sáng lập nhận thức luận hậu hiện đại đề cập tới nhiều vấn đề khác nhau trong sự nghiên cứu về nhận thức, song điểm gặp nhau giữa các ông là tinh thần chống nền tảng luận lý tính – cơ sở lý luận của thời hiện đại.

Jean François Lyotard (1924 – 1998) với thực tại luận và tri thức luận: Luận điểm xuất phát của triết học Lyotard là quan niệm về thực tại, theo ông, thực tại luôn xảy ra những sự kiện đặc thù, kỳ dị khiến cho mọi sự mô tả mang tính duy lý không còn đúng đắn. Lyotard chú ý tới sự hợp thức hoá tri thức vì đó là vấn đề quan hệ giữa tri thức và quyền lực. Vấn đề đặt ra, ai quyết định cái gì là tri thức và ai biết cần phải quyết định cái gì? Trong thời đại tin học hoá, vấn đề tri thức hơn bao giờ hết là vấn đề của chính quyền. Trong sự phân tích tiếp theo, ông phân biệt hai kiểu tri thức: tri thức tự sự và tri thức khoa học.

Richard Rorty (1931 – 2007) với nhận thức luận: Mục đích của ông là muốn xoá bỏ nền tảng luận phổ quát về ý thức và xem xét lại triết học như một lĩnh vực quan tâm trước những đòi hỏi của tri thức so với các lĩnh vực khác qua việc đưa ra sự nhận thức về bản thân tri thức.

Jacques Derrida (1930 – 2004) với phương pháp giải cấu trúc: Derrida xem giải cấu trúc là phương pháp giải mã, tìm kiếm những nghĩa mới, cách lý giải mới đối với một văn bản dựa trên các cặp đối lập.

Michel Foucault (1926 – 1984) với phương pháp phân tích diễn ngôn: Foucault đưa ra quan niệm về diễn ngôn như các điều kiện chân lý tiềm ẩn trong một thời kỳ lịch sử nhất định quy định tính chân lý của tri thức của thời kỳ đó.

3. Quan niệm về nhận thức của CNHHĐ

Một số khái niệm then chốt trong quan niệm về nhận thức của chủ nghĩa hậu hiện đại là: sự kiến tạo xã hội, hoàn cảnh xã hội, văn hóa và ngôn ngữ.

Sự kiến tạo xã hội: “kiến tạo” (construct) có nghĩa là tạo ra, làm nên. Theo CNHHĐ, nhận thức là quá trình tư duy của chủ thể sản sinh ra tri thức từ những chất liệu được mang đến bởi hoàn cảnh lịch sử, văn hóa và ngôn ngữ của cộng đồng xã hội. Sự kiến tạo của tư duy có nghĩa là, thông tin từ thế giới bên ngoài tác động tới các giác quan gây nên những cảm nhận, chúng được bộ não xử lý (kiến tạo) thành những tri giác cảm tính rồi phản ứng lại thế giới bên ngoài. Sự kiến tạo này có sự tham gia của yếu tố sinh học, xã hội và ngôn ngữ.

Vai trò của hoàn cảnh xã hội đối với sự nhận thức: Nếu chủ nghĩa thực chứng phủ nhận vai trò tác động của hoàn cảnh xã hội, văn hóa của chủ thể trong sự sản sinh ra tri thức vì cho rằng điều này làm xuyên tạc tính chân lý của tri thức (gần với tư duy tư biện) thì CNHHĐ lại khẳng định và thừa nhận nguyên lý này.

Vai trò của ngôn ngữ đối với sự nhận thức: Theo CNHHĐ, thế giới khách quan (vật tự nó) không phải là sản phẩm của sự kiến tạo bởi tư duy và ngôn ngữ chúng ta. Nhưng khi mô tả và lý giải thế giới đó, chúng ta buộc phải sử dụng một hệ thống ngôn ngữ nhất định, có giới hạn của một cộng đồng. Ngôn ngữ có vai trò không thể tách rời với sự lý giải, và do đó nó có liên quan tới mọi hiểu biết của chúng ta. Hiểu biết có nghĩa là lý giải, và con người không thể lý giải bất kỳ điều gì nếu không có ngôn ngữ.

Nhận định:

Bằng sự khẳng định tính kiến tạo xã hội của sự nhận thức, CNHHĐ đã đề cao mặt năng động, sáng tạo, tích cực của tư duy con người trong quá trình sản sinh ra tri thức. Qua sự xác định vai trò quyết định của hoàn cảnh xã hội, văn hóa và ngôn ngữ đối với quá trình hình thành tri thức, CNHHĐ đã mở ra những hướng nghiên cứu mới trong các lĩnh vực khoa học liên ngành. Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, quan niệm về nhận thức của CNHHĐ vẫn còn bộc lộ một số hạn chế: Thứ nhất, khi phủ định khả năng nhận thức thế giới khách quan bên ngoài độc lập với ý thức con người (thế giới vật tự nó), CNHHĐ đã sa vào chủ nghĩa bất khả tri; Thứ hai, CNHHĐ đã tuyệt đối hóa vai trò của ngôn ngữ đối với sự nhận thức khi cho rằng ngôn ngữ là cái cấu thành nên thực tại, không có nó không co bất kỳ sự nhận thức nào.

4. Quan niệm về tri thức của CNHHĐ

Theo CNHHĐ, có hai hình thức tri thức: tri thức tự sự và tri thức khoa học. Tri thức tự sự là sản phẩm của sự mô tả và lý giải thế giới khi con người cảm nghiệm nó, là sự phản ánh những hiểu biết về thế giới mà con người sống. Tri thức khoa học là sản phẩm của phương thức tư duy khoa học với đặc trưng khách quan, logic, lý tính. Nếu như tri thức khoa học mong muốn đạt tới lý tưởng về một hệ thống mô tả và lý giải mang tính hình thức phổ quát và chính xác về thực tại thì tri thức tự sự được đặt trên sự quan tâm đối với hoàn cảnh con người trong toàn bộ sư phức tạp, đa dạng của nó.

Một trong những đặc trưng khác biệt giữa tri thức tự sự với tri thức khoa học là quan niệm về “sự lý giải”. Trong tri thức khoa học, một lý giải được xác định qua việc thừa nhận một sự kiện như trường hợp cụ thể của một quy luật chung nào đó, hoặc lý giải đó thuộc về một phạm trù nhất định. Trong tri thưc tự sự, sự lý giải là sự kết nối một sự kiện với một ý đồ nhất định. Theo Bruner, tri thức khoa học là sản phẩm của phương thức tư duy khoa học với đặc trưng khách quan, logic, lý tính. Bắt nguồn từ quan niệm về nhận thức của CNHHĐ, theo đó thực tại hay hiện thực là sản phẩm của sự kiến tạo xã hội. Tri thức tự sự với tính cách là sản phẩm của tư duy tự sự, là một trong nhiều cách kiến tạo thực tại bằng ngôn ngữ. Tri thức tự sự là sản phẩm của việc con người sáng tạo và bộc lộ bản thân. Nếu như tri thức khoa học mong muốn đạt tới lý tưởng về một hệ thống mô tả và lý giải mang tính hình thức phổ quát và chính xác về thực tại thì tri thức tự sự được đặt trên sự quan tâm đối với hoan cảnh con người trong toàn bộ sự phức tạp, đa dạng của nó. Bằng việc quan tâm tới tri thức tự sự, CNHHĐ đưa niềm tin trở lai quá trình nhận thức, vì một trong những đặc trưng của tri thức tự sự là không nhằm chứng minh cho một điều gì đó, nó không cần bằng chứng khách quan làm chỗ dựa cho niềm tin như tri thức khoa học.

II. QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG CHỦ NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI

Tìm hiểu vấn đề chân lý thực chất là truy tìm và đưa ra cách nhìn nhận về tri thức, niềm tin đúng đắn, phân biệt nó với với tri thức niềm tin mù quáng, sai lầm. Ở thời cổ Hy Lạp, từ cuộc tranh luận về thế giới quan giữa “đường lối của Démocrtite” và “đường lối của Platon”; thời trung cổ là sự đối lập giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực; thời cận đại, vấn đề chân lý gắn liền với cuộc tranh luận sôi nổi giữa chủ nghĩa duy nghiệm và chủ nghĩa duy lý. Dư âm cuộc tranh luận được tiếp tục bởi chủ nghĩa tiên nghiệm Kant và về sau là chủ nghĩa thực chứng. Sự ra đời của chủ nghĩa thực dụng và triết học ngôn ngữ mang lại những kiến giải mới về chân lý, có ảnh hưởng đáng kể tới những suy tư và bàn luận của triết học hiện đại về chân lý.

1. Một số quan niệm cơ bản về chân lý trong lịch sử triết học

- Quan niệm phù hợp (tương thích – correspondence) về chân lý:

Tri thức, niềm tin trở thành chân lý nếu chúng phù hợp với trạng thái có thật nơi thực tại ngay thời điểm hiện tại hoặc trong quá khứ, chúng phù hợp với những thuộc tính vốn có nơi thực tại. Nói cách khác, chân lý là sự phù hợp giữa tri thức với thực tại khách quan. Chân lý được xác định bởi sự phù hợp giữa tư duy với thực tại bên ngoài. Đại biểu của quan niệm này là triết gia B. Russell (1872 – 1970) với tiểu luận “On the Nature of Truth” viết năm 1905 và G. E. Moore (1873 – 1958) với tiểu luận “Truth and Falsity” viết năm 1902. Cơ sở thế giới quan của quan niệm phù hợp về chân lý là chủ nghĩa duy vật cùng các hình thức khác nhau của nó trong lịch sử. Đó là sự thừa nhận sự tồn tại một thực tại khách quan bên ngoài độc lập với ý thức, với tư duy con người, làm hệ quy chiếu cho mọi sự nhận thức của con người. Quan niệm phù hợp về chân lý có sự ảnh hưởng rộng rãi trong khoa học, nhất là các khoa học tự nhien, và trong nhận thức đời thường. Cùng với sự đề cao lý tính, quan niệm phù hợp về chân lý là một trong những trụ cột của CNHĐ, là đối tượng phê phán của CNHHĐ.

- Quan niệm chặt chẽ, nhất quán (coherence) về chân lý:

Tính đúng sai của một quan niệm, phát ngôn, mệnh đề phụ thuộc vào những mối liên hệ giữa nó với các quan niệm, phát ngôn, mệnh đề khác, phụ thuộc vào mưc độ chặt chẽ của nó trong một hệ thống quan niệm, phát ngôn đã được xem là đúng trước đó (qua định nghĩa). Đại biểu của quan niệm này là triết gia F. Bradley (1846 – 1924) với tác phẩm “Essays on Truth and Reality” xuất bản năm 1914 và triết gia Mỹ H. Putnam (1926 - ) với tác phẩm “Reason, History and Truth” xuất bản năm 1981. Sự khác biệt cơ bản giữa quan niệm chặt chẽ về chân lý với quan niệm phù hợp về chân lý là ở chỗ, các điều kiện chân lý của mệnh đề bao hàm ở những mệnh đề khác, trong khi đó, theo quan niệm phù hợp về chân lý, các điều kiện chân lý của mệnh đề là những thuộc tính khách quan của thực tại. Quan niệm chặt chẽ về chân lý đã gián tiếp bác bỏ sự tồn tại một thực tại khách quan bên ngoài tư duy con người, nó chỉ quan tâm tới tính cố kết chặt chẽ, phi mâu thuẫn, nhất quán giữa các mệnh đề, phát ngôn, ý tưởng trong một hệ thống hoặc giữa nhiều nhiều hệ thống. Phạm vi ảnh hưởng chủ yếu của quan niệm này về chân lý là toán học, logic học và chú giải học.

- Quan niệm thực dụng (thực tiễn, hiệu quả (pragmatist)) về chân lý:

Đây là quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng. Một phát ngôn, ý tưởng, mệnh đề là đung nếu nó tạo nên những kết quả thỏa mãn khi được dùng như cơ sở của quyết định và hành động. Có thể nói, cách tiếp cận chân lý của chủ nghĩa thực dụng là đồng nhất bản chất của chân lý với nguyên lý hành động. Nói cách khác, chân lý không tồn tại trong thế giới tư duy trừu tượng nào đó độc lập với các quan hệ và hành động xã hội. Chân lý là sản phẩm của quá trình tương tác tích cực giữa con người với thế giới thông qua hành động. Sự khám phá ra chân lý chỉ được thực hiện trong sự tương tác giữa con người với thế giới. Con người không tìm ra chân lý bằng cách ngồi một mình trong phòng và suy nghĩ về nó. Trong cuộc sống, con người luôn tìm kiếm niềm tin chứ không phải sự hoài nghi, và sự tìm kiếm này được thực hiện bằng các hoạt động thực tiễn của con người. Đại biểu của quan niệm thực dụng về chân lý là các triết gia thực dụng Mỹ như C. S. Peirce (1839 - 1914), W. James (1842 - 1910), J. Dewey. Chủ nghĩa thực dụng cùng với quan niệm chân lý của nó trở thành lối sống của số đông người Mỹ. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng mạnh mẽ tới lĩnh vực khoa học – công nghệ, một số ngành khoa học xã hội và nhân văn, các lĩnh vực của hoạt động thực tiễn.

2. Quan niệm của CNHHĐ

CNHHĐ đã kế thừa có chọn lọc những quan niệm về chân lý trước đó, nhất là quan niệm thực dụng về chân lý, và đồng thời qua sự phê bình quan niệm phù hợp về chân lý của CNHĐ, CNHHĐ đã đưa ra quan niệm riêng về chân lý. Theo đó, một quan niệm, ý tưởng, phát ngôn, mệnh đề.v.v.. trở thành chân lý nếu nó được số đông thành viên của cộng đồng thừa nhận, đồng thuận hay nhất trí (consensus) và nó mang lại hiệu quả nơi thực tiễn của cộng đồng đó. Nói cách khác, chân lý là sản phẩm của sự đồng thuận cùng với những hiệu quả thực tiễn rõ ràng. Theo quan điểm này, chân lý được xác định bởi con người, dựa trên những tiêu chuẩn của con người, chứ không dựa vào hệ quy chiếu của một thực tại khách quan bên ngoài. Quan niệm như thế về chân lý mang dáng dấp tinh thần câu châm ngôn nổi tiếng của triết gia Protagoras ở thời cổ Hy Lạp: “Con người là thước đo vạn vật”.

Như đã trình bày ở trên, quan niệm phù hợp về chân lý là một trong những trụ cột của CNHĐ, là đối tượng phê phán của CNHHĐ. Đằng sau quan niệm chân lý của CNHĐ là sự giả định rằng, thế giới vận hành theo các quy luật phổ quát. Mặc dù cho rằng các quy luật của thế giới tồn tại độc lập với ý thức con người, song theo các triết gia Khai sáng, tư duy con người có thể phát hiện, giải mã được các quy luật đó. Vì thế, tính đúng sai của tri thức bất kỳ được xác định bằng cách xem xét sự phù hợp giữa chúng với các sự kiện của thực tại mà chúng ám chỉ. Chẳng hạn, phát ngôn “tuyết màu trắng” là đúng nếu trên thực tế nó quả thật như vậy. Chúng ta xác định tính đúng sai của phát ngôn trên qua việc quan sát màu sắc của tuyết. Các triết gia Khai sáng tin rằng, tư duy con người có thể hiểu được tất cả, năng lực của nó là vô hạn. Họ hy vọng rằng, sự khám phá khoa học sẽ giúp con người dần có được sự mô tả đúng đắn, duy nhất và hoàn hảo về thực tại.

CNHHĐ hoài nghi trước những giả định của CNHĐ. Nó cho rằng, chân lý không là sự mô tả chính xác các thuộc tính của thế giới. Chân lý cũng không là những gì được chứng minh chỉ bằng lý trí hoặc phương pháp thực nghiệm khoa học vì ngoài lý trí, còn nhiều cách nhận thức khác, cảm giác và trực giác chẳng hạn. Thế giới không la lĩnh vực của cái khách quan, mà là lĩnh vực có sự tham gia của các nhân tố chủ quan như con người, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ.v.v.. Quan niệm của CNHĐ ve chân lý như sự phù hợp giữa tri thức với thực tại khách quan cho thấy cách thức đạt tới chân lý. Theo các triết gia Khai sáng, việc truy tầm chân lý đòi hỏi sự quan sát khách quan – quan sát thế giới từ góc độ trung lập, bên ngoài. CNHHĐ phủ nhận ý tưởng này, nó chủ trương, không thể nhận thức thế giới một cách thuần túy khách quan, không chỉ vì con người là một phần của thế giới, mà còn là chủ thể xây dựng, kiến tạo thế giới mà họ trải nghiệm nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống quy ước xã hội, là những kiến tạo xã hội cho phép con người cảm nhận thế giới theo nhiều cách khác nhau. Con người không tồn tại trong một thế giới thuần túy khách quan, mà là những thế giới đặc thù do mình kiến tạo. Vì thế, không tồn tại một nền tảng cuối cùng làm hệ quy chiếu cho chân lý, không tồn tại một thực tại để con người tìm kiếm sự mô tả khách quan, sau cùng nào ngoài vô số các thực tại được kiến tạo nơi các cộng đồng xã hội khác nhau. Sự tồn tại bên cạnh nhau của những kiến tạo trái ngược nhau về thực tại hoàn toàn là điều bình thường.

CNHHĐ bác bỏ khả năng nhận thức thế giới tự nó và chủ trương rằng, con người kiến tạo thực tại bằng bộ máy khái niệm, ngôn ngữ của mình. Con người không thể nhận thức thế giới từ bên ngoài như người quan sát trung lập, thuần khiết. Con người luôn nhận thức với những hiểu biết nhất định có trước trong tư duy và điều con người thấy, phản ánh những hiểu biết đặc thù của mình hơn là thuộc tính của bản thân thực tại. Rorty quan niệm: “Nói rằng chân lý không ở bên ngoài đơn giản có nghĩa là nơi nào không có ngôn từ thì không có chân lý, vì ngôn từ là các yếu tố của ngôn ngữ con người, và ngôn ngữ của con người là những sáng tạo của con người. Chân lý không thể ton tại bên ngoài – không thể tồn tại độc lập với ý thức con người – bởi vì ngôn từ không thể tồn tại như vậy…” . Như vậy, điều chúng ta thấy nơi thế giới là tập hợp những quan điểm và cách lý giải trái ngược nhau, nhưng thế giới được ngôn ngữ kiến tạo, chúng đều có giá trị như nhau. Tiêu chí phân biệt giữa các quan điểm là tính hiệu quả thực tiễn của nó. Chân lý có giá trị là tri thức tự sự của một cộng đồng xã hội nhất định. Chan lý phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội cho nên hiểu biết của con người về nó cũng phụ thuộc vào cộng đồng mà ta là một thành viên. Chân lý không mang tính phổ quát và tính chủ quan tùy tiện của cá nhân, mà mang tính cong đồng, phụ thuộc vào cộng đồng. Cá nhân tồn tại một mình không có nhu cầu tư duy, và lịch sử cũng cho thấy, sự tồn tại của con người không mang tính cá thể, mà mang tính loài, cộng đồng. Grenz quan niệm: “Chủ nghĩa hậu hiện đại khẳng định rằng bất kỳ điều gì chúng ta chấp nhận là chân lý và thậm chí phương thức chúng ta hình dung chân lý đều phụ thuộc vào cộng động mà chúng ta tham dự… Không có chân lý tuyệt đối: khác hơn chân lý là tương đối so với cộng đồng mà chúng ta tham dự” . Chân lý phụ thuộc vào văn hóa của cộng đồng. Mỗi cộng đồng đều có nền văn hóa riêng cho nên cũng tồn tại nhiều chân lý khác biệt nhau. Do vậy, tri thức, quan niệm của con người mang tính đa nguyên. Tuy nhiên, ở đây đa nguyên không đồng nhất với chủ nghĩa tương đối vì sự tồn tại của nhiều quan điểm không hề có nghĩa rằng tất cả chúng đều đáng tin cậy như nhau.

Quan niệm về chân lý của CNHĐ dựa trên niềm tin rằng thế giới vận hành theo những quy luật khách quan, phổ quát và lý trí con người có thể hiểu được. Do vậy, CNHĐ tìm kiếm những quy luật bất biến chi phối tự nhiên và xã hội. Kết quả của sự tìm kiếm này là những chân lý khách quan, phổ quát, luôn đúng trong mọi hoàn cảnh và mọi thời điểm. Trái lại, CNHHĐ khẳng định, chân lý luôn phụ thuộc vào một hoàn cảnh nhất định, nó có nghĩa trong một tập hợp hữu hạn hoàn canh và có tác dụng trong những hoàn cảnh đó. Cho dù tư duy con người có năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa từ những cái đặc thù, song một sự trừu tượng hóa, khái quát hóa hoàn toàn tách rời mọi hoàn cảnh để trở thành cái phổ quát tuyệt đối là điều không thể. Lênin từng viết: “… Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng… Bất cứ cái chung nào cũng là (một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất) của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung,…” . Trong sự vận động phức tạp của thực tại, một số mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng có tính chất lặp đi lặp lại thường xuyên trong nhiều hoàn cảnh, cho nên chúng ta có thể nhận thức những mô hình (quy luật) từ một hoàn cảnh rồi áp dụng vào những hoàn cảnh khác có điều kiện gan giống. Việc nắm bắt và liệt kê tường tận mọi yếu tố và điều kiện của một hoàn cảnh cụ thể là không thể vì chúng không cùng lúc phơi bày ra, cũng như không thể liệt kê toàn bộ những thứ nằm ngoài một chiếc hộp được. Hoàn cảnh bao gồm những yếu tố và điều kiện được nhìn nhận hơn là suy đoán. Chân ly phụ thuộc hoàn cảnh bao hàm sự kết hợp những nội dung tường minh của một mô hình với những nội dung còn ẩn giấu nơi hoàn cảnh. Chân lý phụ thuộc hoàn cảnh bởi vì phần lớn nội dung của nó thuộc về hoàn cảnh. Theo Lênin: “Nguyên lý cơ bản của phép biện chứng là: không có chân lý trừu tượng, chân lý bao giờ cũng cụ thể…” . Chân lý hình thành, phát triển và ứng dụng trong hoàn cảnh và theo hoàn cảnh . Hoàn cảnh luôn chứa đựng những thuộc tính ẩn mà chân lý với tính cách là sản phẩm của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa của tư duy có thể bỏ qua, không bao quát hết được. Mọi chân lý đều ra đời từ một hoàn cảnh cụ thể, nhất định. Nó không tồn tại phổ quát theo kiểu trừu tượng, tách rời hoàn cảnh đầy phong phú, phức tạp, mà luôn gắn liền với hoàn cảnh. Hoàn cảnh là cái toàn bộ, phong phú, còn chân lý là cái bộ phận sâu sắc.

CNHHĐ bác bỏ lý tưởng nắm bắt toàn bộ thực tại khách quan của CNHĐ. Thực ra, nó không phủ nhận sự tồn tại của một thế giới hiện thực bên ngoài, mà chính xác hơn, nó phủ nhận xu hướng phổ quát hóa tri thức về thế giới từ một cộng đồng nhất định thành tri thức chuẩn mực chung cho mọi cộng đồng. Không tồn tại những tiêu chuẩn phổ quát của chân, thiện, mỹ bởi lẽ mỗi người đều tồn tại trong mối liên kết chặt chẽ với một cộng đồng xã hội nhất định, chịu ảnh hưởng của lăng kính tư duy của cộng đồng mình đang sống. Chân lý lệ thuộc vào từng hoàn cảnh lịch sử.

Lý tưởng đạt tới chân lý khách quan của CNHĐ có thể gây nên nơi chúng ta một sự trông chờ vô vọng, vì chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng, tri thức có phù hợp với thực tại khách quan hay không? Và khi không đạt được mục tiêu, chúng ta có thể bị loi vào vòng luẩn quẩn siêu hình của các vấn đề nhận thức luận hơn là trở nên bằng lòng với sự hữu hạn trên hành trình truy tầm chân lý. Có sự khác biệt khi quan niệm rằng, tồn tại một thế giới khách quan bên ngoài ý thức con người với quan niệm về sự tồn tại của chân lý khách quan bên ngoài ý thức, vì chân lý không tồn tại tách rời chủ thể nhận thức, nó là sản phẩm của sự nhận thức, chân lý không tồn tại như thực thể tự nó. Rorty cho rằng: “Thế giới tồn tại bên ngoài, nhưng những mô tả về thề giới không tồn tại bên ngoài. Chỉ những mô tả về thế giới mới có thể đúng hoặc sai. Thế giới tự nó – không cần tới những hoạt động mô tả của con người – không thể” . Chúng ta sử dụng ngôn ngữ để suy nghĩ, tư duy, bàn luận về chân lý. Và ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, tồn tại trong sự gắn kết chặt chẽ với xã hội, do vậy, chân lý mang tính xã hội, nó không mang tính khách quan theo nghĩa tự tồn tại độc lập với ý thức. Nhưng, không có chân lý khách quan không có nghĩa là mọi nhận thức của chúng ta đều là sai lầm, vô giá trị. Giá trị của chân lý không ở tính khách quan hay chủ quan, mà là ở sự hiệu quả của chúng nơi tư duy và hành động của con người. Cũng theo Rorty: “Chúng ta không thể tìm thấy một cái móc cao ngất trời để nâng chúng ta lên khỏi sự chặt chẽ – sự đồng thuận – với điều gì đó giống như ‘sự trùng khớp với thực tại như chính nó’… Các nhà thực dụng muốn thay thế nhu cầu đối với cái khách quan – nhu cầu muốn tiếp xúc với thực tại… bằng nhu cầu về sự liên đới với cộng đồng” . Như vậy, việc quy cái khách quan về sự liên đới của Rorty cho thấy rằng, điều mà chúng ta cho là chân lý chỉ đơn giản là sự khẳng định điều mà cộng đồng đồng thuận. Vì thế, chân lý không là thuộc tính của những niềm tin theo nghĩa phù hợp với các sự kiện của thế giới bên ngoài diễn ngôn cộng đồng. Điều mà ta cho là chân lý chỉ là sự đồng thuận bên trong cộng đồng, “không cần phải xem đó như sự chính xác của biểu tượng” . Hơn nữa, không thể so sánh quan điểm giữa các cộng đồng với nhau vì chúng mang tính vô ước. Sẽ là vô nghĩa nếu ta tìm kiếm sự ủng hộ quan điểm của một cộng đồng dựa vào tính chính xác của biểu tượng, vì không tồn tại chân lý khách quan theo nghĩa dưa trên bất cứ thứ gì bên ngoài diễn ngôn cộng đồng.

Như đã đề cập ở trên, điểm khác biệt trong quan niệm về chân lý của CNHHĐ với các trường phái khác là ở chỗ, nó nhấn mạnh sự đồng thuận của cộng đồng. Ý tưởng này là hệ quả của quan niệm về sự nhận thức như sự kiến tạo xã hội của CNHHĐ. Thế giới được kiến tạo bằng những quy ước xã hội biểu hiện dưới hình thức văn hóa và ngôn ngữ của một cộng đồng xã hội. Những chân lý cụ thể mà con người thừa nhận và cách hiểu chân lý của họ phụ thuộc vào nhóm, tập thể, cộng đồng xã hội mà cá nhân là một thành viên. Chân lý phù hợp nơi một cộng đồng nhất định, nó có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng. “Điều gì đúng trong hoàn cảnh của chúng tôi, có thể không đúng trong hoàn cảnh của anh”, “Điều gì sai trong hoàn cảnh của chúng tôi, có thể đúng trong hoàn cảnh của anh”. Chân lý khong chịu sự ràng buộc của các sự kiện hiển nhiên biểu lộ những thuộc tính của thế giới. Chân lý là điều giúp con người đạt được mục tiêu của hành động, nó bộc lộ trong những quan hệ giữa các thành viên cộng đồng. Rorty cho rằng: “Chân lý là một sự đồng thuận liên chủ thể giữa các thành viên của một cộng đồng” . Sự đồng thuận này cho phép các thành viên nói một ngôn ngữ chung và thiết lập một thực tại được chấp nhận chung. Mục đích của việc nghiên cứu không phải nhằm khám phá hoặc tiến gần tới chân lý tuyệt đối, mà là xây dựng nên niềm tin thúc đẩy sự liên đới cộng đồng. Chân lý được xác lập qua đối thoại, những tri thức có giá trị sẽ nay sinh từ sự lý giải các mâu thuẫn và hành động giữa các thành viên của cộng đồng.

Đồng thuận theo nghĩa chung là sự nhất trí, thống nhất về quan điểm, niềm tin, ý tưởng.v.v.. giữa nhiều người. Có thể phát biểu ngắn gọn về sự đồng thuận như sau: Có một sự đồng thuận trong nhóm P về X nếu mọi thành viên trong nhóm P nhất trí về X. Ta gọi i, j là thành viên của nhóm P; Bi , Bj là thành viên i, j nhất trí về X, ta có công thức logic về sư đồng thuận: (i, j  P) [Bi Bj (X)].

Việc xác định tính chân lý của tri thức, niềm tin phụ thuộc vào sự đồng thuận của nhóm, tập thể, cộng đồng. Không phải mọi tri thức của chúng ta đều đến từ kinh nghiệm nhận thức trực tiếp của mình, mà đến từ kinh nghiệm của nhóm, tập thể, cộng đồng qua sự tương tác, trao đổi thông tin. Một nhân tố quan trọng trong sự nhận thức là cá nhân thường đặt trọn niềm tin vào những phán quyết của nhóm, tập thể, cộng đồng. Khi gặp phải những vấn đề nan giải, mới mẻ, việc xác định tính chân lý của chúng hệ tại chỗ liệu có sự đồng thuận của đa số đối với vấn đề đó hay không. Ngay cả kinh nghiệm nhận thức trực tiếp của cá nhân cũng mang tính xã hội. Vygotsky cho rằng, những quá trình tâm lý phức tạp như tư duy chẳng hạn, nảy sinh từ quá trình tự nội hóa các tương tác xã hội. Mọi hoạt động tinh thần, từ nhận thức tri giác tới ký ức và tới xử lý vấn đề, đều liên quan tới những biểu tượng của người khác, tới việc sử dụng các vật thể nhân tạo cùng những hình thức văn hóa.

Có thể thấy, những thành tựu khoa học đều là sản phẩm của sự đồng thuận giữa cac nhà khoa học, nhóm chuyên gia. Hiển nhiên, đây không phải là sự đồng thuận tùy tiện, võ đoán, mà là tuân theo các quy tắc và chuẩn mực khắt khe, nó là cách tiếp cận chân lý một cách gần nhất có thể. Điều này thể hiện rõ nơi các lĩnh vực khoa học chuyên biệt. Theo quan niệm cổ điển, sự đồng thuận khoa học được đảm bảo bởi việc sử dụng phương pháp khoa học. Trong khi đó triết gia khoa học J. Ziman (1925 – 2005) cho rằng, đồng thuận không phải là sản phẩm của phương pháp khoa học mà nó chính là phương pháp khoa học. Tính chân lý của một phát ngôn khoa học, một lý thuyết khoa học phụ thuộc vào sự đồng thuận của số đông thành viên của cộng đồng khoa học. Mọi thử nghiệm kiểm chứng giả thiết được đặt trên những quyết định chủ quan của cộng đồng khoa học (trường phái) như những quy định cụ thể của sự nghiên cứu, mô hình đo lường, quan sát. Việc xác nhận một giả thiết gần như là vấn đề của sự quy ước khoa học. Ý tưởng về sự quy ước khoa học đã được H. Poincaré (1854 - 1912), K. Popper (1902 - 1994), và Kuhn bàn luận trước đây. Điểm khác biệt giữa chủ nghĩa quy ước và quan điểm đồng thuận về chân lý là ở chỗ, nếu chủ nghĩa quy ước nhấn mạnh các yếu tố nội tại của sự nghiên cứu khoa học như tính hiệu quả, đơn giản, chặt chẽ thì quan điểm đồng thuận đề cao các nhân tố bên ngoài như lợi ích, sở thích, ngôn ngư, văn hóa.v.v.. của cộng đồng khoa học.

Sự đồng thuận của cộng đồng trong vấn đề xác định tính chân lý của tri thức đóng vai trò như một thứ quyền lực nơi cộng đồng xã hội. Quyền lực này vừa chi phối một cách vô hình trước các quyết định của mỗi thành viên về tính chân lý của tri thức như một sự lan tỏa ngấm ngầm về mặt không gian và thời gian, vừa chi phối một cách hữu hình qua các thiết chế tri thức, văn hóa của cộng đồng. Sự đồng thuận của cộng đồng không đơn giản là kết quả của sự chấp thuận một cách dễ dàng, nhanh chóng trước mọi vấn đề tri thức. Nó là sản phẩm của một sự tranh luận, đối thoại dưới nhiều hình thức cứng mềm khác nhau tùy theo các loại lợi ích mà cộng đồng theo đuổi và mức độ hiệu quả của chúng nếu được triển khai trên thực tế. Đôi khi, sức mạnh của ý kiến số đông thường áp đảo những ý tưởng trái chiều của thiểu số và tỏ ra hiệu qua trong việc điều chỉnh, uốn nắn, gò ép những ý tưởng mới lạ của những thành viên cá biệt, đảm bảo sự thống nhất, kiên định trong tư duy và hành động của cộng đồng. Foucault cho rằng: “Mỗi xã hội đều có cơ chế chân lý của nó, “chính trị học chung” về chân lý của nó: đó là, các loại diễn ngôn mà nó thừa nhận và cho là đúng, những cơ chế và trường hợp cho phép một người phân biệt các phát ngôn đúng hay sai, các phương tiện thực thi quyền lực; những kỹ thuật và thủ tục được xem là có giá trị trong việc tìm kiếm chân lý, địa vị của những kẻ có trách nhiệm đưa ra những phán quyết về chân lý” . Chân lý với tính cách là sản phẩm của sự đồng thuận của cộng đồng trở thành quyền lực, sức mạnh chi phối tư duy và hành động của cộng đồng. Vẫn theo Foucault: “Chúng ta phụ thuộc vào sự sản xuất chân lý thông qua quyền lực và chúng ta không thể thực thi quyền lực trừ phi thong qua sự sản xuất chân lý” . Có thể nói, quan hệ giữa chân lý và quyền lực trong sự tồn tại và phát triển của cộng đồng là quan hệ biện chứng. Quyền lực của cộng đồng tạo nên chân lý và chân lý tạo nên, làm cho dựa cho quyền lực cộng đồng. Chính theo nghĩa này mà Foucault khẳng định: “Chân lý là một hệ thống thủ tục trật tự đối với việc sản xuất, điều chỉnh, phân phối, lưu thông, và vận hành của những phát ngôn… được kết nối… trong quan hệ vòng tròn với các hệ thống quyền lực đã sản sinh và duy trì nó, và đối với những hậu quả của quyền lực mà nó tạo nên và mở rộng ra” .

Nhằm mở hướng ra khỏi quan niệm mang tính quyền lực về sự đồng thuận của cộng đồng trong việc xác định tính chân lý của tri thức theo CNHHĐ, Habermas đã đề xuất quan niệm mới về chân lý như sự đồng thuận lý tưởng. Theo đó, một phát ngôn là đúng nếu những chủ thể tiềm năng trong một tình huống ngôn ngữ lý tưởng nhất trí về nó một cách tự do. Điều kiện của một tình huống ngôn ngữ lý tưởng bao gồm: (a)mọi cá nhân với khả năng nói và hành động có thể tham gia; (b) mọi người đều có quyền đóng góp, phê bình bất kỳ khẳng định nào, có thể tự do bộc lộ thái độ, nhu cầu, nguyện vọng; (c) không ai có thể bị cản trở, bởi các áp lực bên trong hay bên ngoài trong việc thực thi các quyền của họ ở điều kiện (a) và (b) nêu trên.

Dễ thấy rằng, xét từ trình đo phát triển hiện thực của xã hội hiện nay, quan niệm đồng thuận của Habermas về chân lý mang đậm tính lý tưởng như Habermas tự nhận nơi lý thuyết của mình. Tuy nhiên, ý tưởng của Habermas đã trở thành niềm cảm hứng thúc đẩy việc xây dựng các thiết chế xã hội ngày càng dân chủ hơn tại một số quốc gia có trình độ phat triển cao.

Tựu trung lại, có thể đưa ra một vài nhận định về quan niệm chân lý của CNHHĐ như sau: thứ nhất, khi cho rằng chân lý là sự đồng thuận của cộng đồng, phụ thuộc vào cộng đồng, CNHHĐ đã rơi vào lập trường chủ quan, tương đối. Đành rằng nếu điều gì đó là chân lý thì nó sẽ được mọi người đồng thuận, nhưng ngược lại, không phải mọi sự đồng thuận của chúng ta trước những vấn đề tri thức đều là chân lý. Sự đồng thuận, hay sự thừa nhận rộng rãi của mọi người trước một quan niệm, ý tưởng, lý thuyết, niềm tin nào đó là hệ quả kéo theo của sự kiện là, bản thân quan niệm, ý tưởng, lý thuyết, niềm tin ấy trước hết phải là chân lý theo nghĩa phù hợp với thực tại khách quan bên ngoài. Sự phù hợp này được chứng minh bằng các phương pháp khoa học và thực tiễn. Do phủ nhận khả năng nhận thức thực tại khách quan bên ngoài nên CNHHĐ đã bác bỏ luôn quan niệm phù hợp về chân lý. Đây chính là nguyên nhân khiến cho CNHHĐ bị phê phán từ nhieu phía, nhất là các khoa học tự nhiên.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, trong lĩnh vực các vấn đề xã hội và con người, những quyết định của cộng đồng luôn bị ràng buộc bởi các nhân tố chủ quan về lợi ích, do vậy, trong trường hợp này, quan niệm đồng thuận về chân lý của CNHHĐ có sức ảnh hưởng khá mạnh mẽ. Thật không đơn giản khi nói về tính chân lý nơi những quyết định về chính trị, kinh tế, ngoại giao, đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa, luật pháp, tôn giáo.v.v.. của những cộng đồng xã hội khác nhau. CNHHĐ trong chừng mực nhất định, đã vạch rõ cơ chế phát sinh, vận hành của chân lý nơi cộng đồng xã hội, nhấn mạnh đặc trưng quyền lực của chân lý.

Thứ hai, khi xác định tính hiệu quả thực tiễn như một tiêu chuẩn của chân lý, CNHHĐ đã góp phần bác bỏ khuynh hướng theo đuổi tri thức mang tính tư biện, vô bổ; phá vỡ những tháp ngà tư duy kinh viện, siêu hình, thoát ly, xa rời cuộc sống; và đồng thời cổ võ cho những nỗ lực tri thức mong muốn đáp ứng những nhu cầu hiện thực ngày càng phức tạp của cộng đồng xã hội. Theo chúng tôi, có thể nói, tri thức không tồn tại vì mình, mà vì sư sinh tồn và phát triển của cộng đồng.

HỒ CHÍ MINH – NÂNG NIU TẤT CẢ CHỈ QUÊN MÌNH

                              Bài thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Nguyễn Quỳnh Anh
1. Mở đầu

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa lớn. Người đã để lại cho Đảng và nhân dân ta di sản tinh thần vô cùng quý giá, trong đó có tư tưởng về đạo đức - kết tinh những giá trị tốt đẹp của dân tộc, nhân loại và thời đại. Hồ Chí Minh không chỉ nói và viết nhiều về đạo đức mà còn là một tấm gương thực hành đạo đức trong sáng nhất, tiêu biểu nhất, được cả thế giới ngợi ca. Trong tác phẩm Trở thành người Bác như thế nào, Êlen Tuốcmerơ đã viết: “Ở con người Hồ Chí Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được mọi người kính yêu nhất trong gia đình mình… Hình ảnh Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng vóc rất tự nhiên” .


Toàn bộ tư tưởng và cuộc đời Hồ Chí Minh đã toát lên nhân cách cao cả của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Đó là lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến, là sự nâng niu, trân trọng con người, trân trọng những giá trị của cuộc sống… Những câu chuyện về tấm gương đạo đức ngời sáng của Người đã in sâu vào tâm hồn của mỗi con người Việt Nam và trở thành mẫu mực để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta noi theo.

2. Nội dung

2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh dành sự nâng niu, trân trọng và tình yêu thương cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp, trong đó có lực lượng Công an nhân dân. Câu chuyện "Bác đến thăm trường Công an" , tôi kể sau đây chính là minh chứng sâu sắc cho điều đó.


Khóa học đầu tiên trong lịch sử ngành Công an khai giảng vào năm 1950. Trong khóa học có biết bao điều đáng nhớ, nhưng có một chuyện mà bất cứ học viên nào cũng không thể quên được, đó là chuyện Bác đến thăm trường.


Tin Bác đến thăm làm toàn thể học viên và lãnh đạo nhà trường vô cùng xúc động. Nhiều người vui quá nhảy lên reo cười; có đồng chí ôm chầm lấy bạn nhấc bổng lên: “Mi ơi, tau mừng quá!”…; có đồng chí đang làm việc mà trống ngực đập liên hồi, tay run run, đôi hàng mi nong nóng, cổ họng nghẹn ngào. Không ai bảo ai, mọi người đều mặc những bộ quần áo tươm tất nhất của mình. Từng toán đông tụ tập dưới các gốc cây bàn tán về các mẩu chuyện mà mình biết về Bác, nói những lời mong ước tâm sự của mình và những lời nhắc gửi của anh em ở nhà khi tiễn chân lên đường ra Việt Bắc.


Thời gian sao trôi chậm quá, lồng ngực không nén nổi con tim đập mạnh nữa rồi. Ai cũng hướng mắt đổ về cửa trường chờ đợi… Bỗng một tiếng reo lên “Bác đến rồi”. Bác hiện ra từ đằng sau vườn tăng gia với dáng người thanh thoát, mang trên mình bộ quần áo nâu và cưỡi trên lưng một con la nhỏ. Mọi người đều ùa đến, vây quanh Bác chào ríu rít.


Bác cười sung sướng như người cha thấy đàn con ngoan, khỏe mạnh xúm quanh mình: “Các chú là Công an phải biết trật tự chứ! Khéo không lại giẫm nát hết rau”. Người đi ngay xuống bếp, xem xét từng cái xanh, cái chảo, từng chỗ đựng nước ăn, rồi lên nhà ngủ, ra vườn tăng gia. Bác chú ý đến nơi ăn, chốn ở của an hem, hỏi han các cán bộ lãnh đạo, cán bộ nhà trường về việc phục vụ anh em và hỏi trực tiếp anh em về mức ăn có đủ chất tươi hay không? Bác căn dặn mọi người phải cố gắng chịu đựng gian khổ trong lúc nước nhà đang thiếu thốn, căn dặn mọi người phải phải cố gắng tăng gia tự cải thiện lấy sinh hoạt và giữ gìn sức khỏe. Mỗi lời nói của Bác đều chan chứa tình thương yêu chân thành như của người cha chăm lo cho đàn con yêu đang sống trong thiếu thốn.


Khi lên hội trường để nghe Bác nói chuyện, ai cũng muốn ngồi lên hàng ghế đầu để nhìn Bác rõ hơn. Hội trường ồn ào như ngả nghiêng say sưa với nỗi mừng vui của anh em. Tuy nhiên, khi Bác cất tiếng thì cả khu rừng im phăng phắc, không một tiếng động…. Bác hỏi mọi người: “Công an đối với dân như thế nào?”.


- Thưa Bác, Công an là bạn dân ạ!


- Bạn dân thôi à? Chưa đủ, Công an phải là đầy tớ dân. (Bác nhấn mạnh chữ đầy tớ). Đã là đầy tớ dân thì Công an phải ra sức bảo vệ nhân dân, phải ra sức phục vụ nhân dân, không được bắt oan dân, không được tra tấn người bất cứ trường hợp nào. Các chú là Công an nhân dân thì tuyệt đối không được làm như Công an đế quốc, tuyệt đối không được dùng nhục hình để xét hỏi người ta.


Tiếng Bác nói sang sảng ấm áp, truyền cảm thấm thía vào lòng mọi người. Bác nói xong, mọi người vẫn im lặng như sợ dư âm tan mất. Bác nhắc đến hai lượt, hỏi chú nào muốn hỏi gì không? Một giọng miền Trung ngập ngừng cảm động: “Thưa Bác, trước khi cháu ra đây, nhân dân trong nớ và toàn thể anh em tha thiết gửi lời chúc Bác sống lâu mạnh khỏe. Chúng cháu xin hứa với Bác, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, trung thành với Đảng và quyết sống chết với kẻ thù!”.


“Cháu ở Bình Trị Thiên à? Đồng bào trong ấy gian khổ lắm..” – Giọng Bác trầm xuống, ngắt quãng, ngậm ngùi. Trong anh em có người cảm động quá rươm rướm nước mắt. Bác xót xa thông cảm nỗi gian khổ của nhân dân trong vùng địch tạm chiếm.


“Đồng bào khổ lắm phải không các chú?”.


Câu hỏi đột ngột của Bác, không ai trả lời được vì ai nấy đều thấy rõ lòng yêu thương vô bờ bến của Người đối với nhân dân. Không khí trầm lặng nhưng toát lên một ý chí căm thù kẻ địch, cương quyết tiêu diệt địch…


Khi Bác về cả khóa học đều lưu luyến không muốn dời xa, ai cũng chạy theo tiễn Bác. Đến cửa trường Bác vẫy tay báo mọi người dừng lại và giật dây cương cho la bước nhanh. Mọi người đứng sững sờ nhìn theo bóng Bác khuất sau lùm cây. Thôi! Bác đi rồi! Rừng cây kia sao ngăn lại bóng Bác, bước chân còn in rõ trên đường... Ước gì rừng hãy quang đi, bước chân la chậm lại để được nhìn theo Bác xa hơn.


2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời tranh đấu cho độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, luôn dành cho con người tình yêu thương, sự cảm thông và chia sẻ. Tuy nhiên, đối với bản thân mình, Người sống vô cùng giản dị. Hồ Chí Minh chăm lo, nâng niu tất cả, chỉ quên mình. Suốt đời tâm niệm là người công bộc của nhân dân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, Hồ Chí Minh luôn hoà mình vào cuộc sống chung của đồng bào, đồng chí, không nhận bất cứ một sự ưu tiên nào người khác dành cho mình. Điều đó phần nào được thể hiện qua câu chuyện "Bác có phải là vua đâu" .


Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, nhiều nhân sỹ, trí thức cao tuổi theo Bác lên Việt Bắc, đi kháng chiến, đèo cao, suối sâu, đường bùn lầy, nhiều vị phải nằm cáng. Anh em phục vụ lo Bác mệt cũng đề nghị Bác lên cáng, Bác gạt đi: Bác còn khỏe, còn đi được, các chú có nhiệm vụ đưa Bác đi thế này là tốt rồi.


Cuối năm 1961, Bác về thăm xã Vĩnh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, một xã có phong trào trồng cây tốt. Tại một ngọn đồi thấp, Bác đứng nói chuyện với nhân dân trong xã. Trời đã gần trưa, tuy đã sang đông mà nắng vẫn còn gay gắt. Nhìn Bác đứng giữa nắng trưa, ai cũng băn khoăn. Đồng chí chủ tịch huyện cho tìm mượn chiếc ô, định giương lên che nắng cho Bác, thì Bác quay lại hỏi:


- Chú có đủ ô che cho tất cả đồng bào không? Thôi, cất đi, Bác có phải là vua đâu?


Một lần, trong bữa ăn, đồng chí phục vụ dọn lên cho Bác một đĩa cá anh vũ, một loại cá sông hiếm, thường chỉ có ở khúc sông Hồng đoạn Bạch Hạc, Việt Trì. Nhìn đĩa cá biết ngay là của hiếm, Bác khen và bảo:


- Cá ngon quá, thế mà chú Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) lại đi vắng. Thôi, các chú để đến chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức.


Miếng ngon không bao giờ Bác chịu ăn một mình. Chia sẻ ngọt bùi là thế, tưởng chuyện cũng sẽ qua đi. Nhưng đến bữa sau, trong mâm cơm lại có món cá hôm trước. Nhìn đĩa cá, Bác hiểu ngay và tỏ ra không bằng lòng.


- Bác có phải là vua đâu mà phải cung với tiến!


Rồi Người kiên quyết bắt mang đi không ăn nữa. Như Bác đã từng nói, ở đời ai chẳng thích ăn ngon, mặc đẹp, nhưng nếu miếng ngon đó lại đánh đổi bằng sự mệt nhọc, phiền hà của người khác thì Bác đâu có chấp nhận.

3. Kết luận

Từ trong tư tưởng và hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ suy nghĩ, tình cảm, nỗi đau của nhân dân, nhân loại và trong sự thanh cao, tinh khiến của tâm hồn, tầm cao của trí tuệ để nhận thức và giải quyết mọi vấn đề. Người không đứng ở trên cao ban ơn, không đứng ở bên ngoài thông cảm, mà đứng trong lòng nhân dân, đập chung một nhịp tim, chia cùng một sức sống, mang cùng một khát vọng... với nhân dân. Người gắn bó với dân tộc, nhân dân và với cả nhân loại từ trong con tim và khối óc, trọn vẹn cả cuộc đời. Dù Chủ tịch Hồ Chí Minh không còn nữa nhưng ngọn lửa tư tưởng, nhân cách của Người vẫn bùng cháy mãnh liệt trong lòng nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Đồng chí Phiđen Catxtơrô Ruđơ – Bí thư thứ nhất Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Cu Ba đã viết: “Cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng chói những phẩm chất cách mạng và nhân đạo cao cả nhất. Hiếm có một nhà lãnh tụ nào trong những giờ phút thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy… Hồ Chí Minh thuộc lớp những người đặc biệt mà cái chết là mầm sống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt” .


Lão Tử có nói: Trời đất sở dĩ có thể dài và lâu vì không sống cho mình nên mới được trường sinh. Thánh nhân đặt thân mình ở sau mà lại lên trước, đặt thân mình ở ngoài mà lại còn. Chủ tịch Hồ Chí Minh sống quên mình mà lại trở thành sống mãi, lời Lão Tử thật sâu sắc lắm thay!.


Hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, phấn đấu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Sự nghiệp đó cần đến những con người có đạo đức cách mạng trong sáng, biết vì dân, vì nước, những người tự coi mình là công bộc của nhân dân, chăm lo cho nhân dân; những con người có trái tim, khối óc biết yêu thương con người, biết rung động trước những mất mát, chia sẻ những sự ngọt bùi, biết tha thứ và bao dung. Đó là những phẩm chất vô cùng cần thiết của mỗi con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng nhất để chúng ta noi theo. Đẩy mạnh việc học tập, rèn luyện theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người là yêu cầu cấp bách trước mắt nhưng đồng thời là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài. Đây là việc làm nhằm hình thành và phát triển các giá trị đạo đức của chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa có nhân cách cao đẹp, xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh, tiến bộ; đấu tranh, khắc phục sự suy thoái về lối sống, đạo đức, chặn đứng, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.


Là một chiến sỹ Công an nhân dân, tôi luôn nhận thức được ý nghĩa to lớn của việc học tập, rèn luyện theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đây là nguồn sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn để mỗi chúng ta có thể hoàn thiện mình, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, chiến đấu và cống hiến cho xứng đáng với danh hiệu cao quý: "Công an nhân dân". Tham gia hội thi "Kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đối với tôi là một vinh dự vô cùng lớn lao, qua đó tôi có thể bày tỏ tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc đến vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.


Qua những câu chuyện đã kể, điều tôi mong muốn nhất đó là mỗi chúng ta hãy ra sức học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người bằng những hành động thiết thực. Đó là không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, luôn luôn hy sinh phấn đấu vì con người, hết lòng, hế sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Thiết nghĩ, nếu tất cả chúng ta cùng yêu thương nhau, cùng kề vai sát cánh, đoàn kết phấn đấu, hy sinh lợi ích bản thân vì lợi ích của tập thể, của nhân dân thì đó chính là một động lực mạnh mẽ để xây dựng chi bộ, đơn vị trong sạch, vững mạnh góp công sức của mình vào việc xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.


Với tất cả chúng ta hôm nay:


“Còn ai chưa một lần gặp Bác,


Hãy nhanh chân,


Tiến lên phía trước, trên cao ấy,


Bác vẫn đưa tay đón lại gần…”


(Tố Hữu).

Thứ Ba, 7 tháng 9, 2010

TƯ TƯỞNG PHÁP TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY

                                                                         Nguyễn Quỳnh Anh

                                                                        nguyenquynhanh.dhan@gmail.com



1. Sự hình thành của bất cứ một học thuyết nào cũng là kết quả của sự tương tác giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan. Đó là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt của xã hội đương thời; sự kế thừa, chắt lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại và sau cùng khúc xạ qua lăng kính của cá nhân nhà tư tưởng. Tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, nó ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu bức thiết của xã hội Đại Việt vào cuối thế kỷ XIV và là vũ khí tinh thần đưa nhà Hồ lên vũ đài chính trị, thay thế nhà Trần trong việc giải quyết những vấn đề mà lịch sử đặt ra.

Nhà Trần tồn tại 174 năm, 115 năm đầu là thời kỳ hưng thịnh với những chiến công oanh liệt và thành tựu văn hoá rực rỡ. Tuy nhiên, từ đời vua Dụ Tông (1341 - 1369) về sau, triều đại này bắt đầu lâm vào tình trạng khủng hoảng. Các vị vua bất tài, hèn kém, chỉ lo ăn chơi, không nghĩ gì đến giang sơn, xã tắc. Dụ Tông “nghiện rượu, mê đàn hát, xa xỉ, làm cung điện nguy nga và tường vách trạm trổ, lãng phí tiền của…” , Nhật Lễ cũng “rượu chè dâm dật…chỉ thích rong chơi…hát xướng” , suýt chút nữa phá tan cơ đồ mà dòng họ Trần dày công xây dựng. Bậc làm vua là vậy, số quan lại cũng không khá hơn, một bộ phận a dua, xu nịnh, chia bè kéo cánh, tranh giành quyền lợi, chèn ép nhân dân; bộ phận khác chán nản, bạc nhược, chỉ cầu yên phận. Trần Nguyên Đán - nhân vật nổi bật sau khi Nghệ Tông lên ngôi - với cương vị Tư đồ phụ chính cũng sớm tìm thú vui trong nhàn tản, ẩn dật. Trang Định Vương Ngạc – con trai vua Nghệ Tông thì than thở cùng Nguyên Đán:

“Ngày nay tôi là đồ bỏ

Ông không tài lạ cứu đời

Cùng một lớp già đau ốm

Ruộng vườn sớm liệu về thôi” .

Sự yếu kém, sa đoạ của tầng lớp cầm quyền đã khiến tiềm lực của Đại Việt vào những năm cuối thế kỷ XIV trở nên kiệt quệ. Bên cạnh đó, thiên tai, mất mùa, đói kém xảy ra liên tiếp, thuế má nặng nề làm đời sống nhân dân vô cùng cực khổ; xã hội phân hoá trầm trọng; khởi nghĩa, cướp bóc nổi lên khắp nơi. Sử thần Phan Phu Tiên đã mô tả điều đó như sau: “Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm, phóng túng… thì giặc cướp rất nhiều. Chúng cướp của, bắt người giữa ban ngày, pháp luật không thể ngăn cấm được” . Trong khi ấy, áp lực của xâm lược ngoại bang từ hai đầu Nam Bắc hiện ra như một mối đe doạ thường trực. Ở phía Nam, Chiêm Thành, Chân Lạp liên tục đưa quân quấy phá ; phía Bắc, nhà Minh cũng rắp tâm mở rộng bờ cõi, chúng liên tục sai sứ sang đòi người, đòi của; nguy hiểm nhất là việc hỏi mượn đường chinh phạt Chiêm Thành vào năm 1386. Điều này gợi nhớ đến sự kiện Toa Đô chỉ huy 50 vạn quân Nguyên đánh vào nước ta từ phía Nam năm 1282, khởi đầu cũng bằng yêu sách tương tự.

Có thể nói, bức tranh chung của Đại Việt vào cuối thế kỷ XIV là sự đình trệ về kinh tế, sự rối ren về chính trị…; nguy cơ mất nước như lưỡi gươm của thần Hadès treo lơ lửng trên đầu nhân dân ta. Nhà Trần đã đến hồi suy vi, không còn khả năng đưa đất nước vượt qua khủng hoảng. Tình thế cấp bách đặt ra là phải loại bỏ những chướng ngại trên con đường phát triển của dân tộc, phế truất sự lãnh đạo của tầng lớp quý tộc tông thất bảo thủ nhà Trần để đáp ứng nhu cầu ổn định chính trị - xã hội, giữ vững thế nước, chủ động đối phó với những hiểm hoạ bên ngoài. Quá trình đó đòi hỏi phải có sự nhạy bén, tài quyết đoán của cá nhân kiệt xuất - người đại diện cho xu thế mới - trong việc đọc và xử lý tình huống chính trị. Do vậy, sự xuất hiện của Hồ Quý Ly với vai trò là trung tâm của quá trình chuyển giao quyền lực là một điều tất nhiên xuyên qua vô số những cái ngẫu nhiên. Ph.Ăngghen đã viết: “Thật là điều ngẫu nhiên thuần tuý mà một vĩ nhân nào đó xuất hiện ở một thời đại nhất định nào đó. Nhưng nếu chúng ta phế bỏ người đó đi, thì lại xuất hiện sự đòi hỏi một người thay thế, và người thay thế này sẽ xuất hiện tốt hay xấu nhưng cuối cùng rồi cũng xuất hiện…” .

Hồ Quý Ly bước lên sân khấu chính trị - quân sự nhà Trần từ năm 1370. Trải qua 5 đời vua (Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông, Trần Phế Đế, Trần Thuận Tông, Trần Thiếu Đế), ông ngày càng giữ vị trí quan trọng và có nhiều đóng góp to lớn trong việc chấn chỉnh cơ nghiệp nhà Trần. Song, cũng chính ông là người lật đổ vương triều đó, đề cao pháp trị và tiến hành những biện pháp cải cách hết sức táo bạo, quyết liệt.

Hồ Quý Ly vốn xuất thân từ tầng lớp Nho sỹ, những người mà vua Nghệ Tông gọi là bọn “Bạch diện thư sinh”. Chính vì vậy, tư tưởng của ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của học thuyết Nho giáo – đặc biệt là Tống Nho. Nguyễn Đăng Thục đã viết: “tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly có lẽ manh nha nảy nở trong phái Nho học “bạch diện thư sinh” kể từ thời vua Minh Tông” . Đặc trưng của Nho học thời Tống là việc gạt bỏ lối tầm chương, trích cú, phục hưng Nho học Tiên Tần, lấy tư tưởng Khổng Mạnh làm hạt nhân, có hấp thụ tinh hoa của những trường phái triết học khác từ đó tạo ra trào lưu tư tưởng triết học mới của thời đại. Về lĩnh vực chính trị, Tống Nho xuất hiện xu hướng coi trọng thực tiễn, lấy tính hiệu quả làm thước đo cho đường lối trị nước, trong đó nổi bật là tư tưởng cải cách của Vương An Thạch. Nguyễn Đăng Thục cho rằng Hồ Quý Ly đã kế thừa “tinh thần pháp trị khống chế theo kiểu Vương An Thạch thời Tống bên Tàu trước kia” . Trương Thị Hoà thì nhận định: “suy cho cùng, tính chất và kết quả của cuộc cải cách Hồ Quý Ly lại gần gũi với cuộc cải cách của Vương An Thạch (1021 - 1086) đời Bắc Tống” . Điểm xuyên suốt trong học thuyết triết học của Vương An Thạch là “tinh thần phê phán và thái độ coi trọng tác dụng tính năng động chủ quan của con người. Đó cũng là tư tưởng chỉ đạo chủ trương cải cách xã hội của ông” . Công cuộc cải cách của Vương An Thạch diễn ra trên mọi mặt của đời sống xã hội như tài chính, kinh tế, quân đội… Về kinh tế - xã hội, ông đặt ra phép thanh miêu, phép miễn dịch và phép thị dịch: phép thanh miêu là việc nhà nước cho dân vay tiền để chăm lo mùa màng; phép miễn dịch cho những người kẻ phải chịu sưu dịch được nộp tiền thay; phép thị dịch cho phép nhà nước thu mua những hàng hóa mà người đi buôn không bán được… Về quân binh, Vương An Thạch đặt ra phép bảo giáp, phép bảo mã: dùng dân binh thay cho lính mộ, khuyến khích nông dân nuôi ngựa để cung cấp chiến mã cho nhà nước, nhằm tăng cường lực lượng quốc phòng và giảm bớt chi tiêu của nhà nước trong việc nuôi quân đội… Mặc dù cuộc cải cách của Vương An Thạch không đạt được kết quả cao nhưng cũng có những tiến bộ nhất định và là một tiền đề cơ bản góp phần hình thành tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly. Bên cạnh Vương An Thạch, như các nho sỹ thuộc phái “Bạch diện thư sinh” đương thời, Hồ Quý Ly cũng kế thừa tư tưởng của Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy… hướng đến những giá trị hiện thực, gạt bỏ mặt tiêu cực, bi quan, vô vi của Phật giáo, Đạo giáo; từ đó phê phán Phật giáo, “bài bác tư tưởng tổng hợp, hỗn dung của các vua Trần” …

Những tư tưởng trị nước của các bậc tiền bối trong lịch sử dân tộc cũng ghi dấu ấn đậm nét trong tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly. Có lẽ ở đây cần lưu ý đến nhân vật Trần Thủ Độ - nhà thực hành pháp trị xuất sắc đầu thời Trần. Thật bi hài khi nhà Trần đoạt ngôi nhà Lý thông qua hoạt động của một nhà pháp trị, cuối cùng mất ngôi cũng vì một nhà pháp trị. Song, pháp trị của Trần Thủ Độ với những mặt tích cực của nó như ý thức quốc gia, dân tộc; tinh thần thượng tôn pháp luật, “thời biến, pháp biến”… đã trở thành một nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Quý Ly. Ngoài Trần Thủ Độ, nhân vật có ảnh hưởng lớn đối với Hồ Quý Ly có thể kể đến là Trần Nghệ Tông. Trần Nghệ Tông chính là người đề bạt và nâng đỡ Hồ Quý Ly, hai người đã gắn bó với nhau như hình với bóng, cùng trở thành linh hồn chi phối mọi hoạt động của nhà Trần. Mặc dù, pháp trị của Hồ Quý Ly trái ngược với chủ trương nhân trị mà các vị vua nhà Trần theo đuổi, nhưng ông đã kế thừa được ở Nghệ Tông ý thức về một dân tộc độc lập, khẳng định chủ quyền đất nước và đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích của tông tộc. Tư tưởng của Trần Nghệ Tông thể hiện qua câu nói nổi tiếng: “Triều trước dựng nước có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống là vì Nam Bắc nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước nhau” ; hay trước khi mất, Nghệ Tông đã nhắn nhủ với Hồ Quý Ly: “Bình chương là họ thân thích của nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước đã suy yếu, Trẫm thì già nua. Sau khi Trẫm chết, Quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn kém, ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua” …

2. Sự xuất hiện của Hồ Quý Ly và tư tưởng pháp trị của ông là một sự tất yếu nhằm giải quyết những nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã hội cấp bách của Đại Việt thời kỳ Trần mạt, nó được hình thành trên nền tảng lý luận chủ yếu là Tống Nho, đồng thời là sự đúc kết những kinh nghiệm trị nước đã có trong lịch sử dân tộc. Pháp trị của Hồ Quý Ly cũng là cơ sở để nhà Hồ thực hiện chính sách cải cách xã hội một cách toàn diện, tạo ra một cục diện mới cho đất nước để sẵn sàng đối phó với mọi khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, không phải chỉ khi soán ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly mới chủ trương pháp trị và cải cách xã hội, mà trên thực tế những điều đó đã được thực hiện từ trước, sở dĩ như vậy vì toàn bộ những quyết sách chính trị của nhà Trần trong 5 đời vua cuối cùng hầu hết đều được đạo diễn bởi Hồ Quý Ly. Tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly được thể hiện ở một số nội dung chính như sau:

Thứ nhất, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu; coi ổn định chính trị - xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước.

Trong lịch sử nhân loại từ cổ tới kim, việc thay đổi triều đại, giành giật vị trí đứng đầu nhà nước là chuyện thường xảy ra, không có gì là lạ. Nhưng bối cảnh chuyển giao quyền lực từ nhà Trần sang nhà Hồ lại có nhiều điểm cần chú ý: đó là một xã hội khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly phải đơn độc chèo lái con thuyền Đại Việt đang ngày một nguy khốn, nguy cơ mất nước dần trở thành hiện thực. Trong khi đó, những chủ trương cải cách của Hồ Quý Ly lại bị cản trở bởi tầng lớp vương hầu quý tộc nhà Trần hèn kém, bất tài, kể cả nhà vua vì quyền lợi riêng của dòng họ đã đứng về phía đối lập với ông.

Để phát triển đất nước, giữ vững độc lập chủ quyền, tránh khỏi thảm họa diệt vong, theo Hồ Quý Ly trước tiên phải nắm lấy thực quyền và thực hiện những chính sách nhằm ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, ông đã không ngần ngại sử dụng mọi biện pháp cần thiết, dùng bạo lực trấn áp để giành được quyền lực, cụ thể như: triệt hạ Đế Hiện, tức Trần Phế Đế (1389) bằng cách “góp ý” với Thượng hoàng Nghệ Tông để phế truất, sau đó sai người thắt cổ chết; ép Thuận Tông dời đô về Đại Lại, nhường ngôi cho thái tử An (Trần Thiếu Đế), xuất gia đi tu và cuối cùng chịu chung số phận như Đế Hiện (1398); giết quý tộc tông thất và bầy tôi trung thành với triều Trần gồm hơn 370 người tại hội thề Đốn Sơn (1399); bức Thiếu Đế nhường ngôi (1400), vì Thiếu Đế là cháu ngoại của Hồ Quý Ly nên mới tránh khỏi họa sát thân...

Có thể nói, Hồ Quý Ly đã vượt qua sự chế ngự của quan điểm “ngu trung” (trung thành một cách mù quáng) mà đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên hàng đầu; vì sự tồn vong của đất nước mà không việc gì không dám làm (vô sở bất vi). Tư tưởng này của ông phần nào được phản ánh trong bài thơ Gửi vua cũ:

“Trước có vua hèn ngu

Hôn Đức và Linh Đức

Sao không sớm liệu đi

Để cho người nhọc sức” .

Chiếc ngai vàng đối với Hồ Quý Ly chỉ là phương tiện quan trọng vào bậc nhất để ổn định chính trị - xã hội và thực thi những chủ trương, chính sách mà ông đã và sẽ ban hành. Nguyên tắc chính trị: “cứu cánh biện minh cho phương tiện” mà Machiavelli – một người phương Tây nêu ra vào thế kỷ XVI xem ra không khác mấy so với trường hợp của Hồ Quý Ly - một người phương Đông ở thế kỷ XIV, bởi từ xưa đến nay, những trí tuệ và nhân cách lớn bao giờ cũng có những điểm tương đồng.

Thứ hai, chủ trương cải cách toàn diện, động viên mọi nguồn lực để giành và củng cố vương quyền, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.

Để động viên mọi nguồn lực, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng “trì trệ, bế tắc”, ổn định bên trong và chủ động đối phó với hiểm họa bên ngoài, Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách hết sức quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc. Có thể coi cuộc chính biến lật đổ nhà Trần năm 1400 là “biện pháp cải cách chính trị táo bạo, triệt để nhất” của Hồ Quý Ly, song, đây là hệ quả tất yếu của quá trình chuẩn bị hết sức lâu dài. Trước đó, Hồ Quý Ly đã đặt ra những chức quan mới và lần lượt đưa những người có cùng chí hướng, thân cận với mình vào giữ những vị trí trọng yếu của triều đình. Việt sử thông giám cương mục chép: “Ở lộ đã có chức an phủ mà lại còn đặt đô hộ và đô thống, ở phủ đã có chức trấn thủ mà lại còn đặt tri phủ và thái thú, có lẽ cốt để cho công việc được thống nhất mà các viên quan đứng đầu phải kiêm việc trông coi, vì thế nên đều dùng các viên đại thần giữ các chức ấy. Chẳng qua lúc bấy giờ Quý Ly sắp cướp ngôi nhà Trần, cho nên đặt ra các chức quan trọng đại, để phân phối công việc cho các người trong đảng mình” . Việc Hồ Quý Ly cử số cận thần, quan lại thân cận của mình kiêm giữ các chức vụ đứng đầu địa phương (1397) đã bước đầu phản ánh khuynh hướng tập trung quyền lực trong việc tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước. Khuynh hướng này đã được Hồ Quý Ly áp dụng để xây dựng vương triều Hồ thành một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, đẩy nhà nước quân chủ quý tộc lùi về quá khứ, thay quan hệ tông tộc từng giữ vị trí chủ đạo bằng quan hệ vua – tôi, quân – thần.

Cùng với việc cải cách chính trị, Hồ Quý Ly cũng tiến hành những biện pháp để củng cố, tăng cường quốc phòng. Đối với Chiêm Thành, sách lược của Hồ Quý Ly là từ bỏ thói quen phòng ngự, chuyển sang chủ động tiến công. Mặt khác, ông cũng nỗ lực chấn chỉnh quân đội, bố trí phòng ngự để sẵn sàng đối phó với phong kiến phương Bắc, điều đó thể hiện qua hàng loạt các hành động như: dời đô về nơi hiểm yếu, điểm quân số, xét duyệt quân ngũ, chuẩn bị quân nhu vũ khí; sửa đắp thành trì, phát động toàn dân chống giặc, đẩy mạnh việc do thám trên đất địch. Quyết tâm chống xâm lược của Hồ Quý Ly phần nào được thể hiện qua câu nói: “Làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc Bắc” .

Về kinh tế - xã hội, Hồ Quý Ly cho ban hành tiền giấy (1397) và thực hiện chính sách hạn điền (1397); tiến hành đo đạc ruộng đất (1398). Theo chính sách hạn điền, trừ Đại vương và Trưởng công chúa, không ai được có quá 10 mẫu ruộng, số ruộng tư nhân vượt quá mức ấy đều phải nộp cho nhà nước làm quan điền. Cùng với chính sách hạn điền, Hồ Quý Ly cũng thực hiện chính sách hạn nô (1401) nhằm hạn chế việc địa chủ, quý tộc dùng dân nghèo làm nô tỳ, bóc lột sức lao động của họ. Hai chính sách trên đã trực tiếp công kích vào tầng lớp quý tộc gắn bó với nhà Trần, hạn chế quyền lợi và làm suy yếu thế lực của họ. Bên cạnh đó, Hồ Quý Ly buộc các sư tăng chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục (1396), những ai đủ tuổi muốn đi tu phải trải qua một kỳ thi để kiểm tra kiến thức. Ông cũng lập ra Quảng tế thự (1403) là cơ quan chuyên chữa bệnh cho dân…

Về văn hóa – giáo dục, Hồ Quý Ly chủ trương phát huy văn hóa dân tộc, đề cao chữ Nôm. Mặc dù là một Nho sỹ trong phái “Bạch diện thư sinh” nhưng ông không tôn sùng Tống Nho một cách mù quáng. Bùi Duy Tân cho rằng: “Tuy học theo Nho gia, nhưng cũng như Chu An, ông không thúc mình trong khuôn khổ của Nho gia qua sách vở Tống Nho. Chính vì một tinh thần hoài nghi, một đầu óc tìm tòi sáng tạo táo bạo đó của ông đã làm cho nhiều thế hệ nhà Nho phải sửng sốt bàng hoàng” . Dường như con người Hồ Quý Ly luôn tồn tại hai mặt: một mặt, ông tìm cách giải thích đạo Nho theo tư tưởng riêng của mình và không tiếc lời phê phán các thánh hiền của đạo Nho, cụ thể “cho Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư.. Luận ngữ có 4 điểm đáng ngờ… Hàn Dũ là đạo Nho… Chu Mâu Thức, Trình Di, Trình Hiệu… tuy học rộng nhưng ít tài…chỉ thạo cóp nhặt” ; mặt khác, ông lại tích cực vận dụng những cách thức, quy tắc của thể chế chính trị mà Nho giáo đã đưa ra để trị nước. Cũng theo tinh thần Nho giáo, Hồ Quý Ly đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng nhân tài. Ông cho đặt học quan ở các châu huyện và tiến hành cải cách thi cử, bỏ lối ám tả cổ văn, tổ chức thêm kỳ thi viết chữ và làm toán… Ở đây, có lẽ Hồ Quý Ly đã ý thức được sự cần thiết phải kết hợp pháp trị với việc giáo dục, cảm hóa con người; lấy văn hóa dân tộc làm mục tiêu đào tạo qua đó phát huy lòng yêu nước và tự tôn dân tộc…

Những chính sách trên đã chứng tỏ tinh thần đổi mới, cách tân của Hồ Quý Ly, ông không chấp nhận lối mòn có sẵn mà tiến hành một bước đột phá làm thay đổi bộ mặt xã hội. Công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly chính là việc làm cần thiết để động viên mọi nguồn lực bao gồm chính trị, quốc phòng, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, qua đó từng bước nắm lấy quyền lực và củng cố “thế” cho vương triều Hồ mới thành lập, tạo sức mạnh để chống chọi với các kẻ địch trong và ngoài nước, chèo lái con thuyền Đại Việt vượt qua phong ba, bão táp.

Thứ ba, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật, đẩy mạnh công tác lập pháp và tăng cường các biện pháp trừng phạt, khen thưởng.

Hồ Quý Ly rất quan tâm đến luật pháp và đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật. Theo ông, luật pháp là phương tiện hết sức quan trọng để trị nước an dân, là công cụ quyền lực tối thượng để đảm bảo cho các chính sách cải cách được thực hiện đến nơi đến chốn. Chính vì vậy, khi ở cương vị đại thần của nhà Trần hay vị Thái thượng hoàng đầy quyền uy của nhà Hồ, Hồ Quý Ly luôn chủ trương đẩy mạnh công tác lập pháp. Một mặt, ông kế thừa các văn bản pháp luật có sẵn của nhà Trần (chẳng hạn như: quốc triều thống chế, quốc triều thường lễ, hoàng triều đại điển, hình luật thư…); mặt khác, ông chỉ đạo ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh cho phù hợp với tình hình cụ thể. Sử chép rằng ngay sau khi thay thế nhà Trần (1401), nhà Hồ đã “định quan chế và hình luật nước Đại Ngu” . Có thể nói, hầu hết các văn bản pháp luật quan trọng vào cuối đời nhà Trần mạt và nhà Hồ (khoảng 12 văn bản dưới thời vua Thuận Tông và Thiếu Đế, 15 văn bản dưới thời vua Hán Thương) là do Hồ Quý Ly khởi xướng và thực hiện, các văn bản ấy đều hướng tới việc phục vụ công cuộc cải cách của ông.

Ngoài việc thường xuyên đẩy mạnh công tác lập pháp, Hồ Quý Ly cũng tăng cường các biện pháp trừng phạt và khen thưởng để việc thực hiện pháp luật được nghiêm chỉnh. Khác với pháp luật thời Lý – Trần, pháp luật của nhà Hồ được sử dụng nhằm lập lại trật tự xã hội, củng cố quốc phòng, trấn áp những mầm mống và hiện tượng phá hoại từ nhiều phía, đồng thời phục vụ công cuộc cải cách toàn diện với vô số trở lực và chống đối quyết liệt. Do vậy, trong những trường hợp cụ thể, hình phạt do Hồ Quý Ly đề ra mang tính chất nghiêm khắc nặng nề hơn các thời đại trước rất nhiều, chẳng hạn: tử hình và tịch thu ruộng đất đối với người phạm tội tàng trữ, lén lút tiêu dùng tiền đồng, làm giả tiền giấy; người lấy trộm măng tre trồng làm vòng thành cũng bị tử hình… Sử liệu cho thấy, những hình phạt cơ bản của nhà Hồ bao gồm: đồ hình, lưu hình, tử hình, giam cầm, tịch thu gia sản, biếm tư… Tử hình cũng có nhiều hình thức khác nhau như: chém chết; chôn sống, dìm nước cho chết; thắt cổ cho chết; lăng trì…

Có thể nói rằng, tinh thần trọng pháp chính là một nét son trong tư tưởng pháp trị Hồ Quý Ly, nó đã góp phần quan trọng để đưa những cải cách của ông vào thực tế, làm thay đổi căn bản mọi mặt của đời sống xã hội.

Thứ tư, kiên quyết và linh hoạt trong xử lý tình huống chính trị, kết hợp ba yếu tố “pháp”, “thế”, “thuật” nhằm hướng đến những giá trị có tính thực tiễn.

Hồ Quý Ly là một con người thực dụng, tư tưởng cũng như hành động của ông đều hướng đến những giá trị có tính thực tiễn, tính hiệu quả. Pháp trị của Hồ Quý Ly bao gồm cả “pháp”, “thế”, “thuật”, song “pháp” và “thế” là hai yếu tố được Hồ Quý Ly hết sức xem trọng. Trước những thách thức tưởng chừng không thể vượt qua, Hồ Quý Ly không phó mặc cho thời cuộc mà quyết tâm giành lấy quyền lực về mình và sử dụng những hình phạt khắt khe khiến mọi người khiếp sợ mà tuân phục. Dường như ở Hồ Quý Ly, lý trí đã trở thành yếu tố chủ đạo, hầu như không bắt gặp yếu tố tình cảm, ông hành động rất kiên quyết, thậm chí có lúc tàn bạo, không từ mọi thủ đoạn để đạt được mục đích chính trị, chẳng hạn như: sai người treo cổ con rể (vua Thuận Tông); bức cháu ngoại (Thiếu Đế) nhường ngôi; giết 370 người thuộc tôn thất nhà Trần tại hội thề Đốn Sơn…; thẳng tay đàn áp mọi lực lượng và hành động chống đối. Tinh thần thực dụng, coi trọng thực tiễn của Hồ Quý Ly còn thể hiện ở việc ép các nhà sư dưới 50 tuổi phải hoàn tục, cho rằng đó là tầng lớp ăn bám, chỉ gây ra lãng phí; ông cũng đưa những người tu hành vào quân đội và sử dụng đội ngũ đó để chinh phạt phương Nam…

Bên cạnh “pháp” và “thế”, Hồ Quý Ly cũng chú ý đến “thuật”, với ý nghĩa là quyền mưu của kẻ cầm quyền trong điều khiển, quản lý đất nước. Điều đó thể hiện qua việc ông kết hợp giữa sự kiên quyết và linh hoạt khi xử lý tình huống chính trị, đặc biệt ở những thời điểm nhạy cảm. Chẳng hạn như chuyện Hồ Quý Ly giả vờ thoái thác không chịu lên ngôi vua; đợi khi quần thần ba lần dâng biểu, mới nhận lời, xưng là Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu…. Hay chuyện Hồ Quý Ly đưa con thứ là Hồ Hán Thương lên ngai vàng cũng là một sự khôn khéo để tránh sự công kích từ mọi phía về việc ông cướp ngôi của nhà Trần. Ông đã sai sứ sang nhà Minh giải thích: “Họ Trần đã tuyệt tự, Hán Thương là cháu ngoại Minh Tông tạm trông coi việc nước” . Hồ Nguyên Trừng là con trưởng, tuy không được nhường ngôi nhưng cũng không có phản ứng gì, ngược lại ba cha con họ Hồ hết sức đoàn kết, thống nhất trong suốt quá trình quản lý, điều hành đất nước. Điều đó cho thấy Hồ Quý Ly đã cùng các con dàn xếp, mưu tính mọi việc nội bộ để hướng tới đại cục, lấy đại cục làm trọng. Có thể nói, sự kết hợp giữa ba yếu tố “pháp”, “thế”, “thuật” trong tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly đã giúp ông có những cách làm, bước đi quyết liệt tạo nên những điểm nhấn sâu sắc đối với xã hội Đại Việt vào cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV.

3. Hồ Quý Ly là một nhà pháp trị triệt để, nhà cải cách táo bạo hiếm có trong lịch sử Việt Nam. Tư tưởng của ông đã khơi nguồn cho một cuộc cải cách toàn diện, nhằm tăng cường chế độ quân chủ trung ương tập quyền, củng cố an ninh - quốc phòng, giải quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội và phát triển văn hóa - giáo dục… Pháp trị Hồ Quý Ly thể hiện tính cách mạng sâu sắc, đó là tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, dám đương đầu với muôn vàn khó khăn, dấn thân can thiệp cải tạo tình trạng hiện tồn, góp phần tạo nên sức sống cho một xã hội đang trên đà suy thoái, khủng hoảng trầm trọng. Một điểm tích cực nữa trong tư tưởng của Hồ Quý Ly đó là việc đề cao tinh thần độc lập tự chủ, kết hợp giữa tư tưởng pháp trị với chủ nghĩa yêu nước và tạo cho nó một sắc thái mới. Với ý nghĩa đó, pháp trị Hồ Quý Ly đã trở thành đường lối chiến lược để chống nạn ngoại xâm đang rình rập, đe dọa nền độc lập của đất nước.

Bên cạnh mặt tích cực, tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly cũng bộc lộ nhiều hạn chế, sai lầm làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và sự nghiệp của ông. Chủ trương, chính sách mà Hồ Quý Ly đưa ra tuy mới mẻ nhưng có những điểm chưa phù hợp với điều kiện xã hội lúc bấy giờ. Chẳng hạn như việc ban hành tiền giấy là quá sớm khi uy tín của nhà Trần và Hồ Quý Ly không đủ để bảo đảm cho giá trị của đồng tiền ấy; mặt khác, tiền giấy lúc đó chưa phải là nhu cầu thiết yếu đối với một nền kinh tế chưa phát triển cao. Hay việc dời đô năm 1397 tuy có nguyên nhân chính đáng nhưng lại quá sức chịu đựng vì tài lực của nhà nước và nhân dân đã cạn kiệt... C. Mác đã viết: “Con người làm ra lịch sử của chính mình nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình muốn chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại” . Sai lầm của Hồ Quý Ly là quá đề cao tính tích cực chủ quan của cá nhân mà thiếu tính toán đến phản ứng của nhân dân và tình hình thực tế của đất nước.

Mặc dù có chú ý đến “thuật” nhưng do đặt nặng yếu tố “pháp” và “thế” nên tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly trở nên cứng nhắc và cố chấp. Với một xã hội chịu ảnh hưởng đậm nét của Nho giáo, lấy chữ “đức” làm trọng, thì những biện pháp, hình phạt nghiêm khắc có khi đến tàn bạo khi xử lý, giải quyết các mối quan hệ xã hội của Hồ Quý Ly khó có thể giành được lòng tin từ phía nhân dân, thậm chí còn tạo ra trong xã hội một tâm lý bất an, hoang mang, lo lắng... Cách dùng người cũng là điểm yếu trong “thuật” trị nước của Hồ Quý Ly. Ông không những thẳng tay trừng trị những người chống đối mà ngay cả quần thần thân tín nhưng có ý kiến trái ngược cũng bị dồn tới đường cùng, ví như Nguyễn Đa Phương, Nguyễn Bẩm... do chỉ trích Hồ Quý Ly nên đã bị giết chết; Ngụy Trung bị chém vì khuyên cha con họ Hồ tuẫn tiết để khỏi lọt vào tay giặc… Nhân tài bên cạnh Hồ Quý Ly cũng vì thế mà ngày càng xa rời ông. Nguyễn Trãi đã nhận xét về con người Hồ Quý Ly như sau: “Họ Hồ dùng gian trí để cướp lấy nước, lại lấy gian trí để hiếp lòng dân. Lệnh bảo sao ban bố mà mọi người oán nổi thương sinh, việc di dân thi hành mà mọi người kêu bề gia thất sở. Gia dĩ thuế má phiền, giao dịch nặng, pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm. Chỉ vụ ích kỷ phì gia, chẳng nghĩ khổ dân hại nước. Yêu người gần, vị tình riêng. Họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiểu nhân mà người nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà thưởng khen, nhân giận mà phạt giết. Người trung thực phải khóa miệng, kẻ lương thiện thì ngậm oan. Thế mà cứ kiêu ngạo tự tôn, không sợ mệnh trời gieo họa” .

Có thể nói những hạn chế trong tư tưởng pháp trị và chủ trương cải cách của Hồ Quý Ly đã khiến nhà Hồ không tập hợp, lôi kéo được quần chúng về phía mình. Thực tế cho thấy, cho đến nay những câu chuyện, truyền thuyết về Hồ Quý Ly còn nhiều, nhưng tất cả đều tỏ ra thiếu thiện cảm, nếu không muốn nói là chỉ trích, lên án ông. Hình ảnh Hồ Quý Ly qua ngòi bút của các sử gia hiện lên như một “loạn thần tặc tử” không hơn, không kém. Nhà Hồ đã thất bại nhanh chóng trước sự xâm lược của quân Minh, thất bại đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhưng có hai nguyên nhân chủ yếu là: không được sự ủng hộ của nhân dân; sai lầm khi đề ra chiến lược chống giặc, trong đó nguyên nhân đầu tiên giữ vai trò quyết định và cơ bản nhất. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: Hồ Quý Ly và nhà Hồ vì “phạm sai lầm, chính trị thì để mất lòng dân, quân sự thì nặng về phòng ngự, nên cuộc kháng chiến đã bị thất bại nhanh chóng” . Pháp trị của Hồ Quý Ly là sự thể hiện hoài bão cao đẹp, ý chí mãnh liệt như một công trình kiến trúc khổng lồ nhưng lại được thực hiện một cách vội vã dựa trên nền móng không vững chắc, lòng dân ly tán, xa lìa tựa bãi cát rời rạc mênh mông, nên chỉ cần một cơn gió mạnh là nó sẽ sụp đổ. Thất bại của Hồ Quý Ly đã khẳng định một chân lý bất diệt: Dân là gốc của nước, một nền chính trị dù có quy mô rộng lớn, có đầy đủ những biện pháp cưỡng chế, áp bức đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu không được quần chúng ủng hộ thì sớm hay muộn cũng đi tới diệt vong.

Lịch sử luôn phát triển về phía trước, mọi thành công hay thất bại cuối cùng cũng lùi dần về quá khứ. Hiện nay, Việt Nam đang vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Song, trên hành trình hướng tới tương lai chúng ta không thể không nhìn nhận, kế thừa những di sản tư tưởng mà cha ông đã để lại. Hồ Quý Ly tuy bại vong nhưng hoài bão của ông về một quốc gia tự lập, tự cường… đã được các thế hệ tiếp sau biến thành hiện thực. Lịch sử có thể hiểu sai lệch, nhưng với tính chất khách quan, nghiêm khắc và sòng phẳng, lịch sử sẽ trả lại những giá trị mà Hồ Quý Ly đã cống hiến, đồng thời chỉ rõ những hạn chế trong tư tưởng của ông để các thế hệ mai sau rút ra những bài học cần thiết trong xây dựng và bảo vệ đất nước.





TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C.Mác – Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Tập 6, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985.

2. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.

3. Doãn Chính (Chủ biên), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

4. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.

5. Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, Tập 1, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2002.

6. Trương Thị Hoà, Thể chế chính trị, hành chính và pháp quyền trong cải cách Hồ Quý Ly, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

7. Kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981

8. Thơ văn Lý - Trần, Tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978.

9. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 5, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.

10. Nguyễn Trãi: Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.

11. Việt sử thông giám cương mục, Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007.

12. Bùi Duy Tân, Hồ Quý Ly - Một văn nghiệp khiêm tốn, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 264 tháng 9-10/1992.

ĐÔI ĐIỀU TRAO ĐỔI VỀ VIỆC HỌC TẬP MÔN TRIẾT HỌC

                                                                                                              Nguyễn Quỳnh Anh


Đối với sinh viên ở các trường đại học thuộc nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung và Trường đại học ANND nói riêng, môn học đầu tiên được tiếp cận thường là Triết học. Được học Triết ngay từ đầu là một thuận lợi lớn, sau này khi học các môn khác các bạn sẽ không cảm thấy ngỡ ngàng, vì ở đó ít nhiều đều có hình dáng của Triết học. Quan trọng hơn, khi học Triết, các bạn được trang bị một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, tạo tiền đề cho các bạn chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức, nhất là ở trường đại học, môi trường mà phương pháp học chủ yếu là "tự học", "biến quá trình đào tạo trở thành quá trình tự đào tạo". Tuy nhiên, một câu hỏi phổ biến mà sinh viên nào cũng đặt ra khi học Triết, đó là: "Thầy ơi! Sao rắc rối quá, em không hiểu gì hết". Lại có những suy nghĩ hết sức ngộ nghĩnh: "Học mà không hiểu mới là học Triết". Điều đó chỉ mang tính chất hài hước, các bạn sẽ xoay sở làm sao khi bước vào phòng thi và nếu có may mắn lắm qua được thì với một hành trang "trống rỗng" con đường phía trước các bạn chắc hẳn sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Như vậy, làm thế nào học Triết học được hiệu quả? Để trả lời câu hỏi đó đã có nhiều buổi thảo luận được tổ chức, nhiều ý kiến đưa ra với mong muốn tìm được phương pháp học tốt nhất. Tuy nhiên, sau đó mọi việc gần như trở về điểm xuất phát ban đầu, trong những bài giảng Triết vẫn bắt gặp những gương mặt mơ màng, đôi khi vô tình nhìn thấy ai đó đưa tay che miệng. Có lẽ nào mọi cố gắng đã bị lãng quên, những hình thức sinh hoạt học tập chẳng qua chỉ là hoạt động phong trào để chi đoàn báo cáo thành tích cho đoàn cấp trên. Phải chăng Triết học là một phương thuốc gây mê thần diệu. Có thể khẳng định một cách chắc chắn là không phải như vậy, vì bên cạnh những bạn luôn cảm thấy lo lắng khi học Triết thì cũng có những bạn say mê với môn học này và đã đạt điểm cao trong kỳ thi học phần.

Phần nhiều sinh viên không hứng thú thậm chí "dị ứng" với Triết học vì tính chất "khô khan" của nó. Đương nhiên Triết học không thể "ướt át" như văn học, không có những nét lãng mạn như "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư: "Em ơi nghe mùa thu_Lá thu rơi xào xạc_Con nai vàng ngơ ngác_Đạp trên lá vàng khô". Tuy nhiên, Triết học không "khô khan" như người ta tưởng, Triết học không phải là "nghệ thuật tâm hồn" như thi ca nhưng nó là "nghệ thuật của lý trí", có lẽ cần phải loại bỏ quan niệm cho rằng, Triết học chỉ dành cho những ai có cặp kính dày, lúc nào cũng trầm tư suy nghĩ, việc học tập luôn diễn ra trong không khí "căng thẳng" như sợi dây đàn. Nên nhớ rằng âm thanh dù thánh thót đến đâu nhưng nghe mãi một tiếng cũng chán, phải có tiếng trầm, tiếng bổng thì mới cuốn hút và đi vào lòng người. Chính vì vậy mà để học tốt Triết học các bạn sinh viên cần tự tạo cho mình hứng thú, phải hết sức thoải mái. Chính thái độ quá căng thẳng khi học tập đã phần nào hạn chế khả năng tiếp thu bài của các bạn.

Những khái niệm, định nghĩa, phạm trù, nguyên lý trong Triết học khó hiểu vì không định nghĩa nào có thể nói lên đầy đủ cái cần định nghĩa. Hơn nữa khái niệm dùng để định nghĩa cho khái niệm cần định nghĩa, đến lượt nó lại cũng cần phải được định nghĩa. Cho nên định nghĩa mẹ lại đẻ định nghĩa con… nói nôm na là "lấy những cái khó hiểu để giải thích cho những cái khó hiểu". Chính vì vậy các bạn phải biết rằng cái chính là các bạn hiểu nội dung chứ không phải ngập chìm trong những định nghĩa. Khi nghe giảng các bạn cần chủ động đặt câu hỏi và chú ý đến những ví dụ của giáo viên, tự mình lấy ví dụ, đồng thời phân tích những ví dụ đó. Những ví dụ đưa ra nên gần gũi với đời sống xã hội hoặc hoạt động học tập thường ngày của các bạn, có thể hài hước, nhẹ nhàng chẳng hạn như khi học đến quy luật lượng chất có thể lấy ví dụ: Đối với hai người yêu nhau, thời gian là lượng, tình cảm là chất, theo thời gian thì tình cảm cũng tăng dần lên, đến một độ nào đó mà hai người cảm thấy sống không thể thiếu nhau được nữa, thì tất yếu sẽ dẫn đến bước nhảy đó là hôn nhân, và có lẽ giờ phút hai người trao nhẫn hay cùng ký tên vào bản đăng ký kết hôn được coi là điểm nút. Có thể các bạn sẽ cười hết sức vô tư nhưng sau đó là quá trình tư duy để hiểu nội dung và nắm được khái niệm, từ những cái chung cụ thể hoá thành những cái riêng và lấy ví dụ minh hoạ, đơn giản hoá vấn đề chính là cách thức tiếp cận không những với Triết học mà còn với nhiều môn học khác nữa. Mục đích không thay đổi nhưng phương pháp cần linh hoạt, bởi vì "mọi con đường đều dẫn đến Roma".

Một nhược điểm của nhiều sinh viên đó là khả năng hợp tác kém, lười suy nghĩ hoặc phức tạp hoá vấn đề. Khi nêu ra một câu hỏi và yêu cầu các bạn phát huy tinh thần tập thể, thảo luận để giải quyết, nhiều bạn ngồi cắn bút, không chịu trao đổi với người bên cạnh, thậm chí trông chờ vào sự giải đáp của giáo viên. Khả năng hợp tác kém, lười suy nghĩ, hay phức tạp hoá những vấn đề bản chất hết sức đơn giản đã làm việc học Triết học trở nên nặng nề đối với nhiều sinh viên. Để kiểm tra mức độ ì tâm lý, trong giờ Xêmina Triết học, tác giả đã có dịp tiến hành một trắc nghiệm nho nhỏ đối với một số lớp, đó là: "Làm thế nào để đưa một con voi vào trong tủ lạnh", với câu hỏi này, có bạn ngồi im không có ý kiến, có bạn cho rằng phải xẻ thịt con voi ra, cũng có bạn khẳng định chỉ có thể đưa con voi vào tủ khi con voi đó là đồ chơi của trẻ em. Thực ra câu hỏi này được lấy trong tạp chí giáo dục thời đại và câu trả lời là: "Chỉ việc mở cửa tủ lạnh ra và đưa con voi vào". Như vậy, với một vấn đề hết sức đơn giản nhưng nếu chúng ta không chịu động não, hoặc cố tình phức tạp hoá thì việc giải quyết trở nên khó khăn hơn nhiều. Do đó, để học tốt môn Triết học thì sinh viên cần phải không ngừng tư duy, phải công não, đó là cách để tránh được những cơn buồn ngủ vô cớ kéo đến vì lao động chính là phương thức của sự tồn tại. Bên cạnh đó các bạn phải tăng cường hợp tác, phát huy trí tuệ tập thể, hợp tác không có nghĩa là các bạn giúp nhau làm bài trong phòng thi mà đó là cùng nhau trao đổi, thảo luận để làm sáng tỏ vấn đề thông qua các hình thức học nhóm, đôi bạn học tập…

Trên đây là những phương pháp có thể nói là hiệu quả hơn so với cách học thụ động, tiếp thu một chiều. Tuy nhiên, khi học Triết yếu tố quan trọng nhất quyết định kết quả chính là sự đam mê thật sự với môn học. Nếu các bạn cho rằng Triết học chỉ là môn học bình thường như bao môn học khác, không thấy được sự cần thiết và chức năng của Triết học, thì khó có thể tìm thấy sự hứng thú mà cốt yếu chỉ để cho qua, đạt yêu cầu. Trong bài này chúng ta không bàn đến chức năng của Triết học dù đó còn là vấn đề thuộc hệ thống mở, tuy nhiên hai chức năng quan trọng cần nói đến của Triết học, đó là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận. Không phải ngẫu nhiên mà có thời kỳ Triết học được coi là "Khoa học của mọi khoa học". Triết học đã tạo ra những cuộc cách mạng vĩ đại trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật.

Khi nghiên cứu lịch sử Triết học có thể thấy rằng, Triết học ở phương Tây xuất hiện đầu tiên ở Hy Lạp đã đẩy lùi thần thoại về quá khứ và trở thành người "bạn đồng hành" của khoa học tự nhiên. Vị trí của Triết học thường ở tiền tiêu so với vị trí của chính trị. Đến thời kỳ Trung cổ Triết học đánh mất vị trí của mình và chỉ còn cách duy nhất là lẽo đẽo chạy theo "thuyết minh" cho nhà thờ, Triết học đã thực sự trở thành thần học. Tuy nhiên, vào thời kỳ Phục Hưng, không ai khác, chính Triết học đã mở đường cho giai cấp tư sản bước lên vũ đài chính trị. Cuộc cách mạng công nghiệp lần đầu tiên đã mở ra một kỷ nguyên thay thế cơ bắp con người bằng máy móc. Khoa học kỹ thuật không thể tiến vượt bậc nếu như không có những "bứt phá" ngoạn mục đảo lộn cách nhìn về thế giới của Triết học. Không có thuyết Nhật tâm của Copécnic, không có con mắt biện chứng (dù rằng duy tâm) của Hêghen… thì e rằng khoa học phương Tây khó có thể phát triển như ngày nay. Ngay như sự ra đời của Triết học Mác cũng không thể tách rời với những phát kiến khoa học vĩ đại ở thế kỷ XIX.

Triết học phương Đông mà tiêu biểu là Phật giáo, Nho giáo, mặc dù bắt đầu từ mối quan hệ giữa con người và con người, lấy cái thiện, tư tưởng đạo đức làm điểm tựa nhưng đã có ảnh hưởng lớn và sâu rộng đến đời sống chính trị - xã hội của nhiều quốc gia. Cho đến nay, những đạo lý về xử thế tu thân, tề gia, nhân, nghĩa, trí, tín… vẫn có sức sống mãnh liệt trong mỗi dân tộc, con người Á Đông.

Như vậy, Triết học cho chúng ta cách nhìn nhận thế giới, và phương pháp tiếp cận giải quyết vấn đề. Nhận thức con người là vô hạn, trong khi đó khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, nhiều vấn đề mà lý luận chưa kịp khái quát, ví như 3 phát kiến của thời đại ngày nay là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và vật liệu xây dựng đã được phản ánh vào Triết học duy vật biện chứng chưa. Qua việc được trang bị thế giới quan và phương pháp luận sinh viên có thể vận dụng giải thích những gì chưa biết, những cái mới, không hề có trong sách vở… từ đó sẽ giúp ích cho các bạn không chỉ trong học tập mà trong suốt quá trình sống, làm việc sau này.

Trên đây là vài dòng trao đổi cùng các bạn, biết đâu có người sẽ cho rằng "phức tạp chẳng kém những gì đã học". Tuy nhiên, đó là những trăn trở của bản thân tác giả với mong muốn giúp các bạn sẽ có suy nghĩ đúng đắn, có hứng thú, niềm đam mê khi tiếp cận Triết học và đạt được kết quả cao. Biển học vô bờ, chưa một ai dám nói mình hiểu hết những vấn đề của Triết học cả, chỉ có sự cố gắng, bởi mọi việc trên đời này kể cả việc học Triết học đều nằm trong quá trình vận động và phát triển không ngừng, Lênin đã từng nói: "Học, học nữa, học mãi". Chân lý ở phía trước các bạn.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢN CHẤT CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM

Nguyễn Quỳnh Anh

Mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều có những vĩ nhân riêng của mình nhưng hiếm thấy một vĩ nhân nào mà cuộc đời và sự nghiệp gắn liền với vận mệnh dân tộc, với lịch sử thời đại như chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ một thanh niên yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người mang trong tim một ước muốn cháy bỏng: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"(1) . Có thể thấy, nội dung cơ bản xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh là "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội". Đây cũng chính là nguyện vọng của nhân dân vì chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Bác từng nói: "Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì cũng chẳng có nghĩa lý gì"(2) . Người luôn nhấn mạnh "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" và phải "lấy dân làm gốc".

Tư tưởng "lấy dân làm gốc" của chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng chỉ đạo mọi ngành, mọi cấp trong bộ máy của Đảng và Nhà nước ta. Đối với ngành công an tư tưởng đó có ý nghĩa hết sức đặc biệt, xác định bản chất của công an. Trong thư gửi đồng chí Hoàng Mai, giám đốc công an khu XII (3/ 1948), Người đã viết: "Công an của ta là công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, dựa vào nhân dân mà làm việc"(3)

Lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất của lực lượng công an: "công an của ta là công an nhân dân". Cán bộ, chiến sỹ trong ngành công an đều là con em nhân dân, từ nhân dân mà ra. Do vậy, công an phải hết lòng phục vụ nhân dân, Người yêu cầu: "Công an phải là đầy tớ nhân dân. Đã là đầy tớ nhân dân thì công an phải ra sức bảo vệ nhân dân, ra sức phục vụ nhân dân"(4), "Làm công tác chính quyền, công an hay ở quân đội đều là làm đầy tớ cho nhân dân cả, vì chính quyền dân chủ là chính quyền do nhân dân làm chủ"(5). Tại hội nghị công an toàn quốc lần thứ 10 (1956), Người khẳng định: "Nhiệm vụ của công an là bảo vệ và phục vụ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân"(6). Người cũng nói: "Công an cách mạng là một công cụ sắc bén của chuyên chính vô sản. Cho nên nhiệm vụ của công an là cực kỳ quan trọng. Nó phải giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ cho nhân dân ta an cư lạc nghiệp"(7). Bảo vệ cho dân "an cư lạc nghiệp" chính là bảo vệ cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thể hiện sự toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân.

Tuy nhiên, lực lượng công an muốn hoàn thành nhiệm vụ của mình phải dựa vào nhân dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò của nhân dân: "Trong bầu trời, không có gì quý bằng nhân dân, không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân"(8) và "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân ta là lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi sự đồng tâm hợp lực của đồng bào ta đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc"(9) . Lực lượng công an chỉ mạnh lên và thực sự mạnh lên khi biết dựa vào nhân dân, Người nói: "Năm vạn người chỉ có năm vạn cặp mắt và năm vạn đôi bàn tay. Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thì sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ít thì thành công ít, giúp đỡ hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn"(10) . Chính vì vậy, Người đòi hỏi: "Bất kỳ việc to, nhỏ đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân… Việc giữ gìn trật tự an ninh càng phải dựa vào sáng kiến và lực lượng của nhân dân"(11).

Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất công an nhân dân phải được thể hiện qua thái độ của công an đối với quần chúng nhân dân. Người yêu cầu công an: "Đối với nhân dân phải kính trọng, lễ phép", làm cán bộ không phải là làm "quan cách mạng". Kính trọng, lễ phép với nhân dân tức là phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát và phê bình của nhân dân. Khi tiếp xúc với nhân dân phải luôn niềm nở, khiêm tốn, tôn trọng nhân dân. Bên cạnh đó phải tin ở dân, phải có thái độ khôn khéo, Người nói: "Dân ta rất tốt. Gặp trường hợp nguy hiểm nếu công an khéo léo thì được dân giúp ngay. Khéo đây không phải là cái lối khéo bề ngoài, mà khéo có nghĩa là phải thật sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân"(12). Người nghiêm khắc phê phán thái độ tự kiêu, tự đại, quan liêu, hách dịch, xa rời nhân dân.

Có thể nói tư tưởng "lấy dân làm gốc" dựa vào dân, vì dân của chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quyết định bản chất mà còn là đường hướng, là nhân cách, lẽ sống của Công an nhân dân.

Thấm nhuần tư tưởng của Người, qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, công an nhân dân luôn quán triệt quan điểm "lấy dân làm gốc", thức cho dân vui chơi, gác cho dân ngủ ngon, lấy hạnh phúc của nhân dân làm niềm vui lẽ sống cho mình. Cán bộ, chiến sỹ công an nhân dân khắc ghi lời thề: "Triệt để bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân lao động, suốt đời tận tuỵ làm người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, vì cuộc sống yên vui và hạnh phúc của nhân dân". Nhiều gương anh dũng hy sinh của cán bộ, chiến sỹ công an kiên quyết và trung thành bảo vệ nhân dân, bảo vệ cách mạng càng tô thắm cho mối quan hệ máu thịt giữa công an và nhân dân.

Song, bên cạnh những cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng công an luôn giữ vững phẩm chất cách mạng, gắn bó với nhân dân, còn một bộ phận cán bộ, chiến sỹ có thái độ coi thường nhân dân, quan liêu, hách dịch, thậm chí hạch sách, gây khó khăn cho nhân dân. Đó là những thái độ hoàn toàn xa lạ với bản chất công an nhân dân. Họ đã quên rằng quyền lực nhân dân trao cho họ là để bảo vệ và phục vụ nhân dân.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất công an nhân dân là vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng công an, có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng niềm tin của nhân dân đối với công an, tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc nền an ninh trật tự của Tổ quốc trong bất cứ tình huống nào.

Để quán triệt một cách sâu sắc tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về bản chất công an nhân dân, thiết nghĩ mỗi cán bộ, chiến sỹ công an cần phải:

- Nhận thức đầy đủ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc nói riêng.

- Mỗi cán bộ chiến sỹ phải xây dựng cho mình quan điểm tác phong quần chúng, luôn ghi nhớ, phấn đấu học tập, rèn luyện theo 6 điều Bác Hồ dạy về tư cách người công an cách mệnh, 6 lời thề danh dự của công an nhân dân. Phải không ngừng trau dồi phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, có lối sống trong sạch lành mạnh, phải tận tuỵ, hết lòng, hết dạ phục vụ nhân dân. Có như vậy nhân dân mới tin yêu công an.

- Phải nêu cao tinh thần phê và tự phê, kiên quyết chống lại các hiện tượng tiêu cực, quan liêu hách dịch, sách nhiễu nhân dân trong công an. Phải có thái độ trân trọng, thật sự lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân và kịp thời sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, phải biết nhận lỗi trước nhân dân. Tuy vậy, khi nhân dân hiểu lầm, công an phải kiên trì giải thích để nhân dân hiểu rõ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin ở nhân dân và sống giữa lòng dân. Người coi nhân dân là động lực, là lực lượng quyết định trong sự nghiệp cách mạng nói chung cũng như trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc nói riêng. Tư tưởng của Người chính là nguồn gốc, là nền tảng, sức mạnh, là chỗ dựa vững chắc của lực lượng công an để lực lượng công an có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình. Chỉ có thể quán triệt tư tưởng của Người, thì lực lượng công an mới giữ vững bản chất của mình, và có sức mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, xứng đáng với danh hiệu cao quý: "Công an nhân dân".

------------------------------

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, T12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr517.

(2) Hồ Chí Minh toàn tập, T4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr56.

(3) Hồ Chí Minh toàn tập, T5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr406.

(4) Chủ tịch Hồ Chí Minh với Công an nhân dân Việt Nam, Tổng cục Xây dựng lực lượng CAND, 2000, tr14.

(5) Hồ Chí Minh toàn tập, T6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr365.

(6) Hồ Chí Minh toàn tập, T8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr119.

(7) Hồ Chí Minh toàn tập, T11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr54.

(8) Hồ Chí Minh toàn tập, T8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr276.

(9) Khắc ghi lời Bác, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr191.

(10) Hồ Chí Minh toàn tập, T6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr366.

(11) Hồ Chí Minh toàn tập, T7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr363.

(12) Hồ Chí Minh toàn tập, T6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr 366.

KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CỦA TRUNG QUỐC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM

                                                                                               Nguyễn Quỳnh Anh


Hiện nay, thế giới đang bước vào nền kinh tế tri thức, ở đó sức cạnh tranh của nền kinh tế chủ yếu được tạo nên bởi trí thông minh và sự sáng tạo. Tri thức ngày càng trở thành yếu tố then chốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đối với Việt Nam, xây dựng nền kinh tế tri thức là điều cần thiết để rút ngắn sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức” .

Để tiến tới nền kinh tế tri thức, vấn đề chủ yếu là phát triển một cách toàn diện nguồn nhân lực, khuyến khích bồi dưỡng và đào tạo nhân tài. Cách đây hơn 500 năm, tiến sỹ Thân Nhân Trung đã viết “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” . Bởi vậy, trong toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội cần coi con người là trung tâm, phải đề cao giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí, xem giáo dục - đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, trong đó giáo dục đại học là một trong những yếu tố hết sức quan trọng, góp phần xây dựng đội ngũ trí thức cho đất nước. Những năm qua giáo dục – đào tạo của Việt Nam nói chung, giáo dục đại học nói riêng đã đạt được thành tựu đáng kể, song cũng có nhiều bất cập, hạn chế, ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của đất nước. Cải cách, đổi mới giáo dục đại học đang là vấn đề hết sức cấp bách. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới giáo dục đại học, chúng ta cần thiết phải tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của các nước, các nền giáo dục tiến bộ và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

Trung Quốc là nước láng giềng có mối quan hệ gắn bó lâu dài và có nhiều điểm tương đồng về kinh tế - xã hội với Việt Nam. Trước năm 1978, do phong trào chính trị “tả khuynh” và “Đại cách mạng văn hóa”, nền giáo dục của Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, giáo dục đại học không có sức sống, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, tụt hậu xa so với các nước phát triển trên thế giới. Hội nghị Trung ương 3 khoá XI (tháng 12 - 1978) của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đề ra chủ trương cải cách toàn diện, trong đó có cải cách giáo dục – đào tạo. Sau hơn 30 năm cải cách, nền giáo dục của Trung Quốc đã được chấn hưng và có những bước tiến thần kỳ, giáo dục đại học của Trung Quốc hiện có sức hấp dẫn vào bậc nhất trên thế giới. Những kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục - đào tạo của Trung Quốc trong thời kỳ mới rất đáng để chúng ta nghiên cứu và học tập.

1. Kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học của Trung Quốc

Từ năm 1978 – 1984, Trung Quốc từng bước thực hiện những đổi mới giáo dục, chuyển từ tư tưởng giáo dục phục vụ đấu tranh giai cấp là chính sang tư tưởng giáo dục phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu giáo dục của nhân dân. Các trường đại học được sắp xếp lại và xây dựng mới; công tác tổ chức cán bộ, bồi dưỡng giảng viên; tuyển sinh; giao lưu học thuật, nghiên cứu khoa học được đẩy mạnh. Năm 1984, Trung Quốc có 902 trường đại học, trong đó có 547 trường đại học trường đại học và học viện chuyên ngành, 273 trường cao đẳng và 82 trường đại học nghề nghiệp ngắn hạn …

Năm 1985, Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành quyết định về cải cách thể chế giáo dục với mục tiêu “nâng cao tố chất dân tộc, đào tạo ngày càng nhiều, càng tốt nhân tài cho đất nước”. Tư tưởng cơ bản của cải cách thể chế giáo dục là: “giáo dục phải phục vụ việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải dựa vào giáo dục”. Đối với giáo dục đại học, Trung Quốc chủ trương cải cách chế độ tuyển sinh; chế độ phân phối sinh viên tốt nghiệp và mở rộng quyền tự chủ của các trường đại học. Trung Quốc cũng thực hiện chính sách thu hút nhân tài, tuyển mộ giảng viên nghiên cứu và cán bộ nghiên cứu trên toàn cầu, thu hút sinh viên nước ngoài du học tại Trung Quốc… Các trường đại học của Trung Quốc cũng thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với các cơ sở nghiên cứu và cơ sở sản xuất trong việc đưa các thành tựu nghiên cứu khoa học vào thực tiễn bằng hình thức thành lập tổ liên kết (dạy học, sản xuất và nghiên cứu khoa học)… Những kỳ đại hội lần thứ XIV (1992), lần thứ XV (1997), lần thứ XVI (2002), lần thứ XVII (2007) của Đảng Cộng sản Trung Quốc đều dành cho giáo dục – đào tạo nói chung, giáo dục đại học nói riêng một vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong sự nghiệp hiện đại hóa đất nước.

Với những chính sách trên, giáo dục đại học ở Trung Quốc ngày càng phát triển mạnh mẽ. Kể từ năm 1998 đến nay, số sinh viên đại học ở Trung Quốc đã tăng lên 300% và hiện đang tiến nhanh hơn các cường quốc như Mỹ, Ấn Độ, Nga và Nhật Bản. Các quan chức ngành giáo dục Trung Quốc ước tính vào năm 2010 sẽ có ít nhất 20% tú tài sẽ được tuyển vào một trường đại học hay cao đẳng, con số này được dự đoán sẽ tăng lên 50 % vào năm 2050 . Những trường đại học danh tiếng của Trung Quốc như đại học Thanh Hoa, đại học Bắc Kinh, đại học Phúc Đán, đại học Triết Giang, đại học Phúc Đán, đại học Nam Kinh, đại học Vũ Hán, đại học khoa học kỹ thuật Hoa Trung, đại học giao thông Thượng Hải, đại học Cát Lâm, đại học Nhân dân Trung Quốc đang vươn lên cạnh tranh với Harvard và Sorbonnes của phương Tây. Nhiều nhà phân tích cho rằng, trong vòng một thập kỷ nữa, Trung Quốc sẽ có một số trường cơ khí hàng đầu thế giới.

Tổng kết quá trình cải cách, phát triển giáo dục đại học của Trung Quốc trong hơn 30 năm qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất, cải cách chế độ tuyển sinh và chế độ học phí, Trung Quốc đã kết hợp chặt chẽ giữa kế hoạch tuyển sinh theo nhiệm vụ nhà nước giao và kế hoạch tuyển sinh mang tính điều tiết thành một thể chế thống nhất có tiêu chuẩn tuyển chọn và tiêu chuẩn thu phí. Nhà nước không bao cấp toàn bộ kinh phí đào tạo mà coi việc đóng học phí như một loại hình đầu tư. Từ giáo dục trung học chuyên nghiệp trở lên, về nguyên tắc, sinh viên phải đóng học phí, ngay cả sinh viên được hưởng học bổng cũng phải đóng từ 100 đến 300 nhân dân tệ một năm học. Đồng thời với việc cải cách chế độ học phí, Trung Quốc kiện toàn và hoàn thiện chế độ học bổng, cho vay tín dụng hỗ trợ sinh viên vừa học vừa làm để trang trải học phí… Những việc làm này góp phần kích thích sinh viên học tập, tăng thêm nguồn thu, thể hiện sự công bằng trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục và khắc phục được những thói quen xấu trong xã hội. Để đảm bảo công tác tuyển sinh được nghiêm túc, Trung Quốc đã ban hành những quy định về quy mô tuyển sinh và điều kiện tổ chức giáo dục, dạy học của trường đại học; đồng thời trao quyền điều tiết kế hoạch tuyển sinh cho các tỉnh, các bộ, ngành. Từ năm 2003, Trung Quốc cho phép một số trường đại học có quyền tự chủ tuyển sinh, mỗi trường đại học có thể đề ra những chỉ tiêu, nội dung nhất định để thu hút và bồi dưỡng nhân tài, chẳng hạn như trường đại học Bắc Kinh thi viết và thi vấn đáp. Trong công tác tuyển sinh, Trung Quốc cũng thực hiện chính sách thu hút người nước ngoài học đại học tại Trung Quốc, khi đưa ra chế độ học phí vừa phải và các hình thức khuyến khích khác nhau. Hàng năm Trung Quốc đều trích 50 suất học bổng ưu tú cho sinh viên nước ngoài có thành tích học tập xuất sắc.

Mặt khác, để tránh tình trạng học lệch, những môn thi đại học của Trung Quốc cũng hướng đến việc bồi dưỡng con người một cách toàn diện. Công thức của các môn thi đại học có thể khái quát ở dạng 3 + X, trong đó ba môn thi bắt buộc là Toán, Ngoại ngữ, Văn, X là những môn thi tự chọn tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương. Thông thường đối với những thí sinh thi vào khối tự nhiên thì X bao gồm Vật lý, hóa học, sinh học; còn đối với những thí sinh thi vào khối xã hội thì X bao gồm lịch sử, địa lý, chính trị… Có thể nói để bước vào cổng trường của đại học Trung Quốc, mỗi thí sinh sẽ phải ôn thi 6 môn. Bình thường trong trường học, thang điểm chấm của Trung Quốc là 100, nhưng thi đại học có sự thay đổi: Toán, Ngoại ngữ, Văn điểm tối đa của mỗi môn là 150, môn tổng hợp điểm tốt đa là 300 (dành cho 3 môn, trung bình mỗi môn 100 điểm); tổng điểm tối đa của một thí sinh thi 6 môn sẽ là 750 điểm.

Thứ hai, cải cách chế độ việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp. Đối với sinh viên được tuyển vào đại học theo kế hoạch tuyển sinh của nhà nước thì vẫn được nhà nước Trung Quốc bố trí việc làm trong phạm vi nhất định, đồng thời từng bước áp dụng biện pháp “lựa chọn hai chiều” giữa nhà trường và đơn vị sử dụng nhân lực, giới thiệu sinh viên tiếp cận với đơn vị sử dụng nhân lực để trao đổi về việc làm. Đối với sinh viên đào tạo theo hình thức ủy thác hoặc đào tạo có định hướng thì bố trí việc làm theo hợp đồng; sinh viên đào tạo theo hình thức tự túc học phí thì phải chủ động tìm việc làm theo nguyện vọng và khả năng của bản thân. Chế độ việc làm như trên đã từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối về nhân lực có trình độ cao của các vùng miền, ngành nghề, phần nào phát huy tính tích cực, sáng tạo của sinh viên trong việc tiếp cận thị trường lao động, đặt nền móng cho việc hình thành thị trường việc làm đa dạng, phong phú qua đó giải quyết được những khó khăn của giáo dục đại học trong việc bố trí việc làm cho sinh viên.

Thứ ba, tăng cường quyền tự chủ cho các trường đại học. Trung Quốc đã mở rộng quyền tự chủ cho các trường đại học như quyền liên kết đào tạo ngoài phạm vi ngành và khu vực, tiếp nhận ủy thác đào tạo; quyền tự chủ xây dựng, sửa đổi kế hoạch dạy học, chương trình dạy học; quyền tự chủ mở rộng hợp tác nghiên cứu khoa học. Giáo sư Anthony Saich - Giám đốc Trung tâm Châu Á của đại học Harvard đã khẳng định việc nếu muốn có một đại học đẳng cấp quốc tế phải trao quyền tự chủ cho cộng đồng học thuật, điều này đã được Trung Quốc làm rất tốt . Đối với công tác quản lý, quyền tự chủ của trường đại học thể hiện ở việc mỗi trường có sự lựa chọn chế độ sử dụng nhân lực và thể chế quản lý khác nhau tùy theo tính chất công việc và nhiệm vụ gánh vác, có quyền xác định tỷ lệ cơ cấu cán bộ, nhân viên trong tổng biên chế được nhà nước phê duyệt. Trường đại học cũng có quyền sắp xếp, điều chỉnh cương vị chức vụ chuyên môn, kỹ thuật tùy theo nhu cầu nhiệm vụ dạy học, nghiên cứu khoa học và nhu cầu xây dựng đội ngũ giáo viên; có quyền tự chủ xem xét, bổ nhiệm các chức vụ kỹ thuật theo quy định có liên quan. Mặt khác, trường đại học có quyền từ chối bất kỳ cơ quan hoặc đơn vị nào tìm cách đòi hỏi nhà trường cung cấp nhân tài, vật lực, tài lực trái với quy định và pháp luật của nhà nước…

Thứ tư, mở rộng hệ thống giáo dục đại học, đầu tư phát triển các trường đại học tinh hoa. Để biến gánh nặng về dân số thành nguồn nhân lực có trình độ cao, Trung Quốc đã mở rộng hệ thống giáo dục đại học, xây dựng các loại hình trường học khác nhau, cụ thể như: trường đại học phổ thông có chức năng đào tạo nhân tài có trình độ cao cho Trung Quốc và là các cơ sở trọng yếu có trình độ kỹ thuật, văn hoá, khoa học cấp quốc gia; trường đại học hàm thụ và trường đại học buổi tối đào tạo không tập trung; trường đại học truyền thanh truyền hình đào tạo từ xa, sử dụng các kỹ thuật dạy học hiện đại thông qua truyền thanh, truyền hình và hàm thụ; trường đại học công nhân viên chức và trường đại học nghiệp dư công nhân viên chức nhiệm vụ làm cho công nhân viên chức đang làm việc tiếp thu lý luận cơ bản ở trình độ cao đẳng hoặc đại học một cách hệ thống và học tập các tri thức chuyên môn, trở thành các cán bộ chuyên môn có trình độ cao; trường đại học nông dân là trường đào tạo cán bộ kỹ thuật nông nghiệp có trình độ đại học chuyên khoa cho các vùng nông thôn; học viện giáo dục và học viện bồi dưỡng giáo viên trung học là trường dành cho người lớn nhằm bồi dưỡng giáo viên, cán bộ hành chính giáo dục; học viện cán bộ quản lý là loại trường đại học cho người lớn do ngành nghiệp vụ của chính phủ lập nên để bồi dưỡng cán bộ quản lý.

Ngoài các loại hình trường đại học kể trên, Trung Quốc còn thực hiện hình thức “khảo thí tự học đại học”. Người học có thể đạt được trình độ cao đẳng hoặc đại học mà không phải theo học bất kỳ một trường nào. Hình thức này kết hợp ba việc: “cá nhân tự học, xã hội giúp đỡ, nhà nước chỉ đạo”, nhằm kích thích việc tự học của nhân dân, tìm nhân tài chưa có điều kiện vào học tại các trường đại học. Toàn quốc và các tỉnh, thành phố thành lập uỷ ban chỉ đạo khảo thí tự học đại học. Các trường đại học phổ thông trên từng địa bàn được chỉ định làm đơn vị chủ khảo. Các ngành học được xác định theo nhu cầu của xã hội và người học được cấp bằng đại học chuyên khoa hoặc bản khoa sau khi khảo thí hợp cách toàn bộ các môn học theo quy định.

Tuy thực hiện việc mở rộng giáo dục đại học bằng nhiều loại hình khác nhau nhưng Trung Quốc cũng chú trọng đến việc xây dựng những trung tâm giảng dạy và nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế. Trung Quốc đã đẩy mạnh phát triển nhóm mười trường đại học lớn nhất nước và tiến hành hợp nhất với các trường đại học nhỏ khác. Trọng tâm của chính sách này là nâng cấp một số trường đại học lớn thành các trường đẳng cấp thế giới, đồng thời mở rộng quy mô của các trường này. Bằng việc đầu tư mạnh mẽ cho nhóm mười trường đại học lớn này, cũng như có những chính sách hợp lý nhằm thu hút nhân tài, đặc biệt là các nhà khoa học người Trung Quốc đã thành danh tại nước ngoài, nhóm các trường đại học này (còn được gọi là các trường đại học tinh hoa) đã nâng cao đáng kể vị thế của mình trong khu vực và thế giới. Phát triển các trường đại học tinh hoa Trung Quốc rất chủ động trong việc đào tạo phần lớn nguồn nhân lực chất lượng cao của chính mình và cũng nhờ có các trường đại học tinh hoa nên khi mở cửa giáo dục, Trung Quốc và có ngay được những đối tác hàng đầu thế giới và trong một thời gian ngắn các trường này lại có cơ hội phát triển nhanh và mạnh. Điển hình là hai trường Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa. Từ những trường đại học hầu như không được biết đến ở Âu - Mỹ, năm 2007 đã được xếp hạng 36 và 40 trong danh sách những trường đại học tốt nhất thế giới .

Thứ năm, chuyển đổi sang hình thức đào tạo theo tín chỉ. Đào tạo theo tín chỉ là một hình thức của việc thiết kế chương trình đào tạo, cụ thể hóa các kiểu loại và số lượng môn học cho sinh viên, cho phép sinh viên điều chỉnh nhịp độ học tập của mình theo khả năng của họ. Trên thực tế, việc đào tạo theo tín chỉ đã được thực hiện ở Đại học Bắc Kinh - Trung Quốc từ năm 1917 – 1927. Những năm 50 của thế kỷ XX, giáo dục đại học Trung Quốc thực hiện đào tạo theo niên chế, song, tới năm 1978, một số trường đại học Trung Quốc bắt đầu quay lại áp dụng đào tạo theo tín chỉ. Năm 1986, có hơn 200 trường đã áp dụng hệ thống này và hiện nay đào tạo theo tín chỉ là hình thức tổ chức đào tạo phổ biến ở tất cả các trường đại học của Trung Quốc.

Ưu điểm của đào tạo theo tín chỉ là tạo ra sự tăng cường tính chủ động của sinh viên, giúp họ làm quen với sự cạnh tranh, mở rộng phạm vi kiến thức, cho phép họ tiến lên theo nhịp độ phù hợp với khả năng của mình, những người thông minh có thể tốt nghiệp trước thời hạn bằng cách học nhiều môn hơn trong cùng một thời gian. Tuy nhiên, rất nhiều học giả Trung Quốc cho rằng, đào tạo theo tín chỉ, thì sinh viên sẽ theo dễ, bỏ khó, trốn những giờ giảng trên lớp và kiến thức có thể nông cạn; vấn đề quản lý việc tự học của sinh viên cũng rất khó khăn. Để khắc phục điều đó, trong đào tạo theo tín chỉ, Trung Quốc quy định sinh viên phải học từ 25 – 30 giờ mỗi tuần. Các môn bắt buộc chiếm 60 - 70%, những môn tự chọn chỉ chiếm 30 % – 40 %. Quy định này phần nào làm hạn chế khả năng nghiên cứu độc lập của sinh viên và như vậy, hệ thống đào tạo theo tín chỉ vẫn chưa thực hiện hết ý nghĩa của nó.

Thứ sáu, thu hút và bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho giáo dục đại học. Để phát triển giáo dục đại học, Trung Quốc xác định nhân tố con người giữ vai trò trung tâm và sớm có chiến lược về phát triển nhân tài. Chiến lược này được thực hiện một cách bài bản, từ khâu tuyển chọn đến xây dựng chương trình, phương thức đào tạo sử dụng và chế độ đãi ngộ, đặc biệt chú trọng gửi sinh viên, giảng viên tài năng đi du học và tu nghiệp dài hạn, ngắn hạn ở những nước phát triển. Đến nay đã có trên 300.000 người ra đi, phần lớn đã là tiến sĩ, thạc sĩ, nhiều người trở thành chuyên gia tài giỏi cấp quốc tế. Chính phủ Trung Quốc cũng khuyến khích kêu gọi trí thức Trung Quốc về nước tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học với chế độ ưu đãi ngộ, đặc biệt là những trí thức gốc Hoa tại Mỹ. Chẳng hạn như Andrew Chi-chih Yao - giáo sư đại học Princeton, một trong những nhà khoa học vi tính hàng đầu nước Mỹ - đã về nước để điều hành chương trình nghiên cứu vi tính nâng cao tại trường đại học Thanh Hoa ...

2. Những vấn đề đặt ra đối với giáo dục đại học ở Việt Nam

Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Vấn đề giáo dục – đào tạo nói chung, giáo dục đại học nói riêng để phát triển nguồn lực con người Việt Nam ngày càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định chủ trương: “Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành” .

Sau 20 năm đổi mới, giáo dục đại học của Việt Nam cũng đạt những thành tựu nhất định. So với năm 2001, số sinh viên cao đẳng, đại học của Việt Nam đã tăng 1,75 lần, số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,5 lần. Các trường cao đẳng và đại học đã được thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa phương, đặc biệt ở vùng chậm phát triển như Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Công tác quản lý chất lượng giáo dục đại học đã đặc biệt được chú trọng. Ngoài Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng cấp trung ương được thành lập vào tháng 8/2008, 55 đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng được thành lập ở các trường đại học và cao đẳng. Tới tháng 7/2008, đã có 114 trường đại học tự đánh giá chất lượng học tập và giảng dạy của trường mình. Đã có nhiều trường đại học tổ chức dạy học theo các chương trình tiên tiến quốc tế. Tới tháng 7/2008 có 24 chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế đang được sử dụng ở 17 trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh. Sự gắn kết giữa hoạt động khoa học công nghệ với hoạt động đào tạo đại học và sau đại học được tăng cường tập trung vào các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, khoa học nông - lâm - ngư và khoa học giáo dục .

Mặc dù có những bước tiến nhất định, song, giáo dục đại học của Việt Nam còn nhiều bất cập, chương trình giáo dục đại học chậm đổi mới, chưa đáp ứng được mục tiêu giáo dục. Đội ngũ giảng viên đại học vừa thừa, vừa thiếu, vừa không đồng bộ về cơ cấu, số giảng viên có trình độ thạc sỹ và tiến sỹ còn quá ít. Sản phẩm của giáo dục đại học chưa phù hợp với đòi hỏi của xã hội, nhiều sinh viên không tìm được việc làm, hoặc làm việc trái ngành. Hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học còn yếu, không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Có thể nói, giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay có phần kém cạnh với những nước trong cùng khu vực và còn cách rất xa với nền giáo dục đại học tiên tiến trên thế giới. “Báo cáo phát triển thể giới” của WB cho thấy, trong năm 2006 hai trung tâm khoa học lớn của Việt Nam là đại học quốc gia Hà Nội và đại học bách khoa Hà Nội có 34 công trình khoa học được công bố và có tên trong danh sách của ISI. Ngược lại, các giáo sư và sinh viên của Đại học Quốc gia Seoul có 4.556 ấn phẩm khoa học, Đại học Bắc Kinh gần 3000. Cũng theo báo cáo đó, năm 2006 ở Trung Quốc có đến 40.000 ứng dụng sáng chế ngược lại Việt Nam chỉ có 2. Ngay đối với Thái Lan, trong khi 98 % hoạt động nghiên cứu khoa học tập trung vào các trường đại học, thì ở Việt Nam, các trường đại học chỉ đóng góp có 38% số công trình công bố quốc tế . Cũng bởi vì vậy, cho đến nay, trong bảng xếp hạng các trường đại học trên thế giới của những hệ thống đánh giá như Times Higher Education Supplement (THES), Maclean University Ranking, The Guardian University Guide, Đại học Giao thông Thượng Hải không có tên bất cứ trường đại học nào của Việt Nam. Với xuất phát điểm như vậy, sẽ rất khó khăn cho Việt Nam trong việc hội nhập giao lưu với giáo dục đại học thế giới và vươn đến những mục tiêu như “đến năm 2020 có ít nhất 5% tổng số sinh viên tốt nghiệp đại học có trình độ ngang bằng với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi ở các trường đại học hàng đầu trong khối ASEAN, 80% số sinh viên tốt nghiệp được các doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động đánh giá đáp ứng được các yêu cầu của công việc” . Do đó, Việt Nam cần phát huy nội lực và tích cực học hỏi kinh nghiệm của các nền giáo dục trên thế giới để đưa giáo dục đại học phát triển. Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm giáo dục đại học của Trung Quốc, có thể nhận thấy giáo dục đại học Việt Nam đang cần phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, về công tác tuyển sinh và chế độ việc làm cho sinh viên. Phải đổi mới công tác tuyển sinh bao gồm mục đích tuyển sinh, nội dung thi tuyển, phân cấp quản lý đi đôi với phân quyền và phân cấp trách nhiệm công tác tuyển sinh cho các trường đại học, bảo đảm chính xác, công bằng, dân chủ và công khai, thực hiện đầy đủ chính sách xã hội để tăng cơ hội được đào tạo ở bậc đại học cho các bộ phận dân cư, nhất là các đối tượng chính sách và tầng lớp nhân dân lao động. Trong công tác tuyển sinh cần chú ý đảm bảo cân đối cơ cấu nguồn nhân lực phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi vùng miền. Mặt khác, với cơ chế tuyển sinh như hiện nay, phần nhiều thí sinh học lệch, chỉ thiên về các môn khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội. Điều này không đảm bảo mục tiêu của giáo dục là xây dựng con người phát triển toàn diện. Vì vậy, cần thay đổi cơ chế tuyển sinh để kiểm tra kiến thức của thí sinh một cách toàn diện, qua đó tạo động lực cho học sinh, sinh viên phấn đấu học tập. Ở đây, công thức 3 + X của Trung Quốc cũng là một kinh nghiệm có thể xem xét vận dụng. Mặt khác, đổi mới công tác tuyển sinh phải đi đôi với việc đổi mới chế độ việc làm, tuyển sinh phải gắn kết với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội, tránh trường hợp đào tạo một cách tràn lan, không định hướng, dẫn đến trường hợp sinh viên sau khi tốt nghiệp không tìm được việc làm, hoặc làm việc không đúng ngành nghề đã học. Có thể nói giáo dục đại học phải đề ra chiến lược để sản phẩm đào tạo của mình phát huy được tác dụng trong thực tế.

Thứ hai, nâng cao tính tự chủ của các trường đại học, khuyến khích nghiên cứu khoa học. Cần thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các trường đại học. Nâng cao tính tự chủ cho các trường qua việc tự quyết định và chịu trách nhiệm về nội dung đào tạo, tài chính, nhân sự. Thúc đẩy thành lập Hội đồng trường ở các cơ sở giáo dục đại học để thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của đơn vị. Mặt khác, cần giao quyền tự chủ nhiều hơn cho các trường đại học trong nghiên cứu khoa học, khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học. Hiện nay, cơ chế quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học còn nhiều gò bó, thủ tục hành chính rườm rà, giảng viên phải trải qua rất nhiều khâu xét duyệt mới được thực hiện đề tài nghiên cứu mà mình tâm đắc. Vì thế, cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính để khuyến khích giảng viên nghiên cứu khoa học, giao quyền tự chủ cho các trường đại học trong khâu này cũng là một vấn đề cần thiết làm, điều này sẽ mang lại hiệu quả lớn, góp phần nâng vị thế của các trường đại học Việt Nam.

Thứ ba, mở rộng giáo dục đại học nhưng trên nguyên tắc coi trọng chất lượng, “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, đẩy mạnh các hoạt động quản lý chất lượng. Việt Nam cũng chủ trương việc xây dựng mạng lưới các trường đại học để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao cho đất nước, chú ý xây dựng các trường cao đẳng, đại học ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; khuyến khích mở các trường đại học dân lập, tư thục. Song, cũng cần phải chú trọng đến vấn đề chất lượng, thực tế có rất nhiều trường được thành lập nhưng qua kiểm tra cho thấy chưa đủ các điều kiện về giảng viên, về cơ sở vật chất và các điều kiện tối thiểu của một cơ sở đào tạo đại học. Có thể nói, nếu các trường đại học được thành lập một cách tràn lan, thiếu kiểm soát chặt chẽ thì vấn đề đưa giáo dục đại học Việt Nam ngang với mặt bằng chung của khu vực là rất khó khăn. Vì vậy, cần quản lý chặt chẽ và chấn chỉnh lại việc mở trường, đẩy mạnh các hoạt động quản lý chất lượng, xây dựng các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng, thay đổi nhận thức về chất lượng văn hoá bên trong các trường đại học và cao đẳng, thành lập các đơn vị chuyên trách để triển khai các hoạt động về đảm bảo chất lượng giáo dục đại học. Việc đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục ở trong nước, được phát triển theo đúng xu thế đảm bảo chất lượng, đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục trên thế giới.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng và có trình độ chuyên môn cao, thu hút nhân tài và có chế độ đãi ngộ hợp lý. Hiện nay, số lượng giảng viên ở các trường đại học còn thiếu rất nhiều, trình độ chuyên môn chưa cao, nhiều trường đại học không có phó giáo sư, đội ngũ giảng viên một số ít là tiến sỹ, thạc sỹ còn lại phần đông là cử nhân. Vì vậy, phải tăng cường công tác xây dựng giảng viên, xây dựng đội ngũ giảng viên có phẩm chất đạo đức và năng lực tốt; tạo động lực để giảng viên phấn đấu học tập và rèn luyện. Mặt khác, cần thu hút nhân tài, các nhà giáo, nhà khoa học ở nước ngoài, Việt kiều vào phục vụ trong các trường đại học. Muốn vậy, cần phải có chế độ đãi ngộ xứng đáng, phải tạo được môi trường làm việc tốt, hấp dẫn, khiến cho giảng viên yêu ngành, yêu nghề, những nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài muốn về phục vụ đất nước.

Thứ năm, đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi từ đào tạo sang niên chế sang đào tạo theo tín chỉ. Xu hướng chuyển đổi từ đào tạo truyền thống, theo niên chế, sang đào tạo theo tín chỉ là tất yếu, hợp lý, việc này đã được trường đại học Đà Lạt thực hiện từ năm 1994. Tuy vậy, trên thực tế, các trường đại học ở Việt Nam vẫn chưa xem hệ thống tín chỉ như một phương tiện đẩy mạnh việc thực hiện những quan niệm giáo dục có được thông qua quá trình tranh luận, tư vấn và lãnh đạo. Thay vào đó, hệ thống tín chỉ đang được dùng như một thứ băng dán nhằm xoa dịu những chỉ trích hiện tại, mà không tác động thật sự đến việc cải cách chương trình. Cần nhận thức được tính tích cực của việc đào tạo theo tín chỉ, đây là phương thức đào tạo lấy người học là trung tâm. Trong phạm vi nhất định, sinh viên được chọn môn mà họ thích học và thể hiện quan điểm của mình trước những vấn đề mà môn học đặt ra; được chọn thời gian học phù hợp với lịch hoạt động của cá nhân mình... Mặt khác, đào tạo theo tín chỉ cũng đặt ra yêu cầu cao với sự nỗ lực của người thầy và làm công tác quản lý giáo dục hiệu quả hơn. Để thực hiện tốt việc chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ, vấn đề đặt ra là phải xây dựng được chương trình khung khung theo nguyên tắc chuyển từ chương trình cứng sang chương trình mềm dẻo, thể hiện ở việc giảm tỉ trọng các môn quy định của cứng của Bộ, của trường, tăng các môn chuyên ngành; giảm bớt môn học để sinh viên có thời gian đọc tài liệu tham khảo; có nhiều chuyên đề mở trong chương trình đào tạo. Cần chú ý đến cơ chế trao quyền nhiều hơn cho giảng viên trong đào tạo và tăng tính tự chịu trách nhiệm cao giảng viên. Mặt khác cần phải xây dựng cơ sở vật chất phù hợp với hình thức đào tạo...

Tóm lại, trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, nhân tố con người giữ vai trò hết sức quan trọng, vấn đề cốt lõi trong việc phát huy nhân tố con người là phát triển giáo dục – đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Giáo dục đại học hiện nay đang đứng trước những thử thách to lớn trong việc hội nhập quốc tế, vươn lên theo kịp sự phát triển của khu vực và thế giới. Trong quá trình này, Việt Nam phải phát huy sức mạnh nội lực và tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục phát triển hơn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi trình bày một số kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học của Trung Quốc và những vấn đề đặt ra với giáo dục đại học của Việt Nam, rất mong được sự góp ý, trao đổi của các nhà khoa học và đồng nghiệp.



TÀI LIỆU THAM KHẢO



1. Bộ giáo dục và đào tạo, Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2009 – 2020 lần thứ 13.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006

3. Đánh giá chất lượng sản phẩm giáo dục đại học về việc nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, Báo cáo tại Hội nghị chất lượng giáo dục đại học Việt Nam 2007, Tp. Hồ Chí Minh, 5 - 1- 2008.

4. Hai mươi năm cải cách thể chế giáo dục, Nxb. Cổ tịch, Trung Châu, 1998.

5. Nghiêm Đình Vy – Nguyễn Đắc Hưng, Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

6. Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo - khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.